Sáng kiến kinh nghiệm Dạy một số kiểu bài trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5

Ở bậc tiểu học nói chung, học sinh lớp 5 nói riêng, Luyện từ và câu là một trong những phân môn của môn Tiếng Việt có tầm quan trọng đặc biệt. Môn Luyện từ và câu giúp học sinh có kĩ năng sử dụng Tiếng Việt được phát triển từ thấp đến cao; học sinh sử dụng đúng từ, đúng câu trong giao tiếp, trong văn bản. Trong những năm học gần đây, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn bản điều chỉnh dạy học theo hướng đổi mới, phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục và đào tạo. Bên cạnh việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm thì còn chú ý đến dạy học phù hợp với đặc điểm của vùng miền, dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng, dạy theo hướng giảm tải phù hợp từng đối tượng học sinh. Thực tế cho thấy ở lớp 5, cơ bản các em đã có kiến thức sơ giản về các môn học, đã dần hoàn thiện các kĩ năng (đọc, viết, nghe, nói) ở môn Tiếng Việt. Tuy nhiên, sự hạn hẹp vốn sống và vốn kiến thức về từ ngữ, sử dụng từ ngữ và ngữ pháp ở phân môn Luyện từ và câu làm cho học sinh lúng túng, khó hiểu và chưa phát huy hết được năng lực học tập của mình.

Luyện từ và câu là phân môn cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh, góp phần không nhỏ trong việc thực hiện đạt mục tiêu của môn Tiếng Việt. Ngôn ngữ của chúng ta là ngôn ngữ của từ. Từ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn từ, là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, dùng để tạo nên câu. Con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy; nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt.

Nhận thức đ­ược điều đó, với nguyện vọng làm sao để các em học sinh có khả năng hiểu Tiếng Việt hơn, biết dùng từ một cách phù hợp trong các tình huống nên ngay từ nhiều năm nay tôi đã trăn trở, luôn đặt câu hỏi và tìm tòi câu trả lời: Dạy học làm sao phát huy được tính tích cực cho học sinh, giúp cho học sinh phát triển trí tuệ, tình cảm và yêu thích môn học và học tốt phân môn Luyện từ và câu?

doc 14 trang Thu Nga 25/08/2025 180
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy một số kiểu bài trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy một số kiểu bài trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy một số kiểu bài trong phân môn Luyện từ và câu Lớp 5
i, của giáo viên để đối chiếu bài làm hay gọi học sinh lên bảng làm, gọi học sinh chữa miệng, đổi chéo vở kiểm tra bài làm của nhau... Từng bước hình thành cho học sinh ý thức, thói quen và năng lực tự phát hiện, tự sửa chữa, tự hoàn thiện bài làm của mình.
II. Giải pháp phân biệt nghĩa của từ:
Giúp học sinh nhận biết từ một nghĩa và nhiều nghĩa.
Để học sinh nhận biết thế nào là từ nhiều nghĩa, trước hết giáo viên có thể cho học sinh phân tích hai ví dụ sau:
Ví dụ 1:Hãy nêu nghĩa của từ : “xe đạp”
Xe đạp là loại phương tiện giao thông, có hai bánh, dùng sức người đạp cho bánh quay. Đây là nghĩa duy nhất của từ “xe đạp”. Vậy từ xe đạp là từ chỉ có một nghĩa.
Ví dụ 2: Em hãy nêu nghĩa từ “đứng” trong các câu sau:
- Tôi đứng bán hàng suốt từ sáng tới giờ.(Đứng 1: Ở tư thế thân thẳng, chân đặt trên mặt nền, chống đỡ cả toàn người hoặc động vật)  
 - Ông bố đứng ra bảo lãnh cho cậu con trai quý tử.( Đứng 2: Tự đặt mình vào một vị trí,nhận lấy một trách nhiệm nào đó)
- Buổi trưa, trời đứng gió.( Đứng 3: Ở vào trạng thái ngừng chuyển động)
- Anh ấy có thể đứng một lúc năm máy.( Đứng 4: Điều khiển ở tư thế đứng)
Từ “đứng” có khả năng gọi tên nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau, nhiều hoạt động khác nhau. Ta nói từ “đứng” là từ có nhiều nghĩa.Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
2. Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để phân biệt nghĩa gốc - nghĩa chuyển.
	a. Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, tôi đã hướng dẫn học sinh thông qua cách nhận biết trực quan như sau:
	- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em có thể cảm nhận được bằng giác quan thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.Trong từ điển nghĩa gốc là nghĩa được nói đến đầu tiên.
	- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng hoặc hành động, tính chất mà các em không thể cảm nhận bằng giác quan thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ: a. Bữa tối, nhà em thường ăn cơm muộn.
             b. Xe này ăn xăng quá!
 	 c. Mẹ tôi là người làm công ăn lương.
- Ăn: chỉ hoạt động đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong câu a, là hành động cụ thể. Từ “ăn” trong câu a, được dùng theo nghĩa gốc.
	- Ăn: chỉ hoạt động tiêu thụ năng lượng để máy móc hoạt động. Hành động “ăn” trong câu b, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ “ăn” trong câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
	- Hành động ăn trong câu c, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ “ăn” trong câu c, được dùng theo nghĩa chuyển.
	Như vậy, từ “ăn” nào chỉ hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những từ dùng theo nghĩa chuyển.
b. Nếu cả hai nghĩa đều cụ thể, khó phân biệt được nghĩa nào cụ thể hơn, nghĩa nào trừu tượng hơn, thì có thể hướng dẫn học sinh dựa vào các dấu hiệu sau:
	- Nếu nghĩa của từ nào nói đến bản thân con người (hoặc động vật), hoặc tính chất, hành động của con người thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
	- Nếu nghĩa của từ nói đến các đồ vật, vật có hình dáng, tính chất, hành động gần giống con người thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ: Từ “tai”
a. Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
b. Chiếc ấm này, tai đã sứt.
          - Tai: cơ quan hai bên đầu người, động vật. Từ “tai” dùng chỉ bộ phận cơ thể người. Từ “tai” ở câu a, được dùng theo nghĩa gốc.
          - Tai: bộ phận của vật có hình dáng giống cái tai. Từ “tai” chỉ bộ phận của vật. Từ “tai” ở câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
 	3. Hướng dẫn học sinh phát hiện ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa chuyển với nghĩa gốc của từ.
	Để nhận diện được một từ nào đó có phải là nghĩa chuyển được hiểu rộng từ nghĩa gốc của từ đó hay không, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra những nét giống nhau trong ý nghĩa của các từ. Nếu từ đó có nét giống so với nghĩa ban đầu thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển. Nếu từ đó có nghĩa hoàn toàn khác xa với nghĩa ban đầu thì từ đó là từ đồng âm.
Ví dụ:
a. Nó bị ướt từ đầu đến chân.(chân: bộ phận cuối cùng của cơ thể người hoặc động vật, để đi, đứng)
b. Chân giường bị  gãy.(Chân: bộ phận cuối cùng của đồ dùng, có tác dụng đỡ bộ phận khác).
c. Ở chân núi phía xa, bầu trời như thấp dần.(Chân: Phần cuối cùng của một vật, tiếp giáp và bám chặt với mặt nền).
	Từ “chân” trong ba câu trên cùng có nét nghĩa giống nhau: cùng chỉ bộ phận dưới cùng. Vậy “chân” trong chân giường, “chân” trong chân núi là nghĩa chuyển của từ “chân” trong chân người.
III. Giải pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nhiều nghĩa, từ đồng âm:
	Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau. Ví dụ: siêng năng, chăm chỉ, cần cù; tổ quốc, non sông, đất nước...
	Điểm khác với từ đồng âm là: Từ đồng nghĩa mặc dù âm thanh phát ra không giống nhau nhưng về mặt ý nghĩa thì giống nhau hoặc gần giống nhau.
	Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. Ví dụ: Con ngựa đá không đá con ngựa.
 Cổ: bộ phận cơ thể con người và cổ: xưa, lạc hậu 
	Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
	Ví dụ: Mắt: - Đôi mắt của bé mở to.
	 - Quả na mở mắt.
	 Đầu: - Khi viết, em đừng ngoẹo đầu.
	 - Nước suối đầu nguồn rất trong.
	Khi dạy giáo viên cần sử dụng tranh ảnh, vật thật để minh họa cho từ nhằm giúp các em hiểu đúng nghĩa và phân biệt được từ. Cần hướng dẫn học sinh đặt từ vào văn cảnh để hiểu đúng nghĩa của từ.
	Ví dụ: Để phân biệt nghĩa từ "đồng" trong ví dụ: Cánh đồng - tượng đồng - một nghìn đồng, giáo viên đưa bức ảnh chụp cánh đồng, một pho tượng làm bằng đồng và tờ tiền một nghìn đồng cho học sinh xem để học sinh nắm nghĩa của các từ đồng âm này.	
	Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau. Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái.
	Ví dụ 1: Quả, trái - giống nhau: Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định (quả mít/trái mít). Khác nhau: Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát ra sắc thái tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương...
	Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm, ví dụ: Cho, biếu, tặng: "Cho" có sắc thái trung hòa, "Biếu" có sắc thái kính trọng, "tặng" có sắc thái thân mật.
	Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng các từ đồng nghĩa khác nhau. Hay nói cách khác, các từ đồng nghĩa không phải bao giờ cũng thay thế cho nhau được, chúng đồng nghĩa với nhau vì chúng vừa giống nhau vừa khác nhau.
â Từ đồng nghĩa là các từ khác nhau về mặt ngữ âm nhưng giống nhau về mặt ý nghĩa, chúng cùng biểu thị các sắc thái khác nhau của cùng một khái niệm.
	Ví dụ: Cùng nói đến khái niệm "ăn" có xơi, nhậu nhẹt, chén ...
	Ví dụ: siêng năng, chăm chỉ, cần cù, ...
	* Có những từ đồng nghĩa hoàn toàn, có thế thay thế cho nhau trong lời nói. Ví dụ : hổ, cọp, hùm, ...
	* Có những từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Khi sử dụng những từ này, ta phải cân nhắc để lựa chọn cho đúng. Ví dụ: 
	+ ăn, xơi, chén,... (biểu thị thái độ, tình cảm khác nhau đối với người đối thoại hoặc điều được nói đến).
	+ mang, khiêng, vác, ...(biểu thị những cách thức hành động khác nhau).
	Trong quá trình giảng dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tôi cũng đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và lựa chọn sao cho học sinh nắm kiến thức mới và vận dụng trong học tập cũng như trong cuộc sống một cách hiệu quả.
	Để giúp học sinh phân biệt và làm đúng được yêu cầu của bài tập về từ đồng nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, trong quá trình dạy học người giáo viên cần:
	Giúp học sinh xác định rõ các đặc điểm, cấu tạo của chúng về hình thức và bản chất.
	Tạo mọi điều kiện giúp học sinh được bộc lộ cách hiểu của mình về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm.
	Qua các bài tập, học sinh thực hành về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa giáo viên cần cho các em tự kiểm tra, kiểm tra lẫn nhau về kết quả mình đã làm được.
PHẦN III: KẾT QUẢ
Sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của học sinh lớp tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Học sinh đã biết cách ứng xử, nói và viết phù hợp với tình huống giao tiếp.
 Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Luyện từ và câu. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình cũng tạo được sự say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học Luyện từ và câu. Cho nên tiết Luyện từ và câu bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước.
Tôi đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong các giờ Luyện từ và câu. Đầu năm học, khi mới bước vào học phân môn Luyên từ và câu có không ít học sinh lớp tôi rất “sợ” học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu dắt của tôi, số lượng các em sợ học phân môn này ngày càng giảm dần. Thay vào đó học sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Luyện từ và câu. Qua nắm bắt thông tin từ phụ huynh học sinh, cho thấy các em ở nhà đã tự giác và tỏ rõ sự yêu thích học phân môn này.Học sinh lớp tôi đã có ý thức hơn trong các giờ học Luyện từ và câu, học sinh tự tin và hứng thú học tập. Chất lượng học Luyện từ và câu có chuyển biến rõ rệt. Cách dùng từ, đặt câu phong phú, các bài viết có sự khác biệt rõ do học sinh được bộc lộ kinh nghiệm, sự hiểu biết của cá nhân, học sinh được tự do diễn đạt bằng sự lựa chọn từ ngữ, mô hình câu của riêng mình. Giờ học hứng thú hơn bởi học sinh có động cơ nói ra, viết ra điều mình thấy, mình cảm nhận được.
Năm học 2018 - 2019
Năm học 2019 - 2020
Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt: 36,7%
Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt: 84,8%
Tỉ lệ học sinh hoàn thành: 53,3%
Tỉ lệ học sinh hoàn thành: 15,2%
Tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành: 10%
Tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành: 0%
Và trên đây là kết quả khảo sát bài làm học sinh trước và sau khi tôi áp dụng đề tài.100% học sinh hoàn thành, số lượng học sinh hoàn thành tốt tăng nhiều.
Điều đó mang lại nhiều ý nghĩa, bài học kinh nghiệm và là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.
PHẦN IV: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Khi dạy môn Luyện từ và câu cần lưu ý:
1. Giúp học sinh học tốt từ ngữ, nắm nghĩa từ và câu qua ngữ cảnh:
	Có thể nói phân môn Luyện từ và câu là công cụ hỗ trợ đắc lực và không thể thiếu chiếm tỉ lệ trọng yếu khi học môn Tiếng Việt và các môn học khác. Vậy học sinh cần phải có vồn từ ngữ, hiểu về nghĩa của từ và câu một cách hiệu quả thông qua ngữ cảnh. Xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt con người hàng ngày thì hoạt động ngôn ngữ tái hiện lại những sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh ta. Nên khi dạy phân môn này giáo viên cần phải gắn với ngữ cảnh, những cái gần gũi với học sinh nhìn thấy và tiếp cận. 
	Kết quả có nhiều học sinh tìm đúng từ và có vốn từ do mình tìm được, học sinh có hứng thú tích cực hơn và nhớ lâu hơn. Có vốn hiểu biết cơ bản khi vận dụng học tập cho phân môn cũng như các môn học khác tốt hơn.
2. Phân loại hệ thống nhóm từ, từ loại và phát triển từ gắn với phân nhóm đối tượng học sinh:
3. Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập cho học sinh:
4. Giúp học sinh nắm chắc cấu trúc ngữ pháp:
5. Luôn tổ chức và tạo cơ hội cho học sinh thực hành kĩ năng giao tiếp:
6. Tổ chức các hoạt động vui chơi lồng ghép học sinh hệ thống kiến thức và tự chữa lỗi:
7. Giáo viên cần phải nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, xác định những khó khăn mà học sinh lớp mình gặp phải để từ đó có biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả các tiết học.
8. Với mỗi tiết học giáo viên cần phải phân loại các dạng bài tập, lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
9. Tích hợp dạy học chính trong phân môn Luyện từ và câu và tích hợp phân môn Luyện từ và câu với các môn học khác một cách thường xuyên.
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận 
	Năm cuối cùng của bậc tiểu học các em học sinh lớp 5 cần có kiến thức vững chắc về từ loại Tiếng Việt để có thể học tốt ở Trung học cơ sở. Là một giáo viên tiểu học, tôi đã lưu ý nghiên cứu nội dung và phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục, xây dựng hệ thống các bài tập giúp học sinh thực hành để củng cố kiến thức này. Đặc biệt luôn phải lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em tìm tòi và tự rút ra những kết luận cho mình. Tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Luyện từ và câu là hết sức cần thiết. Có như vậy, các em mới nhớ kỹ, nhớ lâu những kiến thức mới khám phá. 
 Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho học sinh trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt, một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ, mà mục đích cuối cùng cần phải đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh không thể chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ Tiếng Việt mà lại không có khả năng sử dụng những hiểu biết ấy vào giao tiếp. Dạy Tiếng Việt cho các em không phải chủ yếu là dạy “kĩ thuật ” ngôn ngữ mà là dạy “kĩ thuật ” giao tiếp. Việc dạy tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất giúp học sinh nắm được các quy tắc sử dụng ấy. Vì thế, có thể nói dạy tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
II. Khuyến nghị 
 Để dạy học môn Luyện từ và câu cũng như các môn học khác tốt hơn, tôi mong muốn Sở và Phòng Giáo dục kết hợp với Công ty Thiết bị trường học trang bị thêm cho chúng tôi tranh ảnh, mẫu vật, băng hình có nội dung theo các bài học để giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
	Tiếp tục mở lớp chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối với các kiểu bài.
 Tôi mong muốn các đồng nghiệp tiếp tục tăng cường tự học hơn nữa để nâng cao kiến thức đồng thời tích cực đổi mới phương pháp đáp ứng yêu cầu giáo dục mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu nói riêng, các môn học khác nói chung.
 Trên đây là sáng kiến nhỏ mà tôi đã áp dụng để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5.Kính mong được sự động viên, khuyến khích cũng như góp ý của hội đồng khoa học cấp trên. 
 Tôi xin trân trọng cảm ơn!
 Bắc nghèn, tháng 2 năm 2019
Tài liệu tham khảo:
Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Tác giả TS. Nguyễn Trí.
Phương pháp dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học. Tác giả Lê Phương Nga - Nguyễn Trí.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_mot_so_kieu_bai_trong_phan_mon_luy.doc