Sáng kiến kinh nghiệm Dạy môn từ ngữ Lớp 5
Trước cải cách giáo dục, trongnhà trường việc dạy từ chủ yếu được thực hiện qua các bài văn(trongtập đọc, giảng văn ...) chúng ta tiến hành dạy từ trong các bài văn. Như vậy, việc dạy từ ở đây cũng chỉ mang tính ngẫu nhiên, tản mạn không có tính chủ động, kế hoạch.
Trong chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục, từ ngữ được tách thành phân môn độc lập, có tiết dạy riêng. Trong chương trình và sách giáo khoa tiểu học phân môn từ ngữ có nhiệm vụ giúp học sinh hệ thống hoá vốn từ, mở rộng, phát triển vốn từ dựa vào các chủ đề, chủ điểm từ ngữ. Trên cơ sở đó, học sinh tiến hành luyện tập sử dụng từ qua các kiểu bài tập như điền từ, dùng từ đặt câu, viết đoạn văn ngắn... Tóm lại, có thể nói từ ngữ được tổ chức dạy riêng, trong khuôn khổ của một phân môn Tiếng việt là một bước tiến đáng kể của chương trình và sách giáo khoa cỉa cách giáo dục.
Bên cạnh SGK, từ năm 1994 – 1995, còn có “Vở bài tạp Tiếng việt”trong đó có bài tập của phân môn từ ngữ. Vở bài tập được dùng kèm với SGK, bổ sung cho SGK và được xem là sự điều chỉnh phương pháp dạy học Tiếng việt để nâng cao giờ dạy.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy môn từ ngữ Lớp 5

ẫn học sinh tự rút ra những kết luận , tự xây dựng các định nghĩa về khái niệm. Để thực hiện được yêu cầu trên tuỳ theo nội dung, tôi đặt ra một số câu hỏi và hướng dẫn học sinh trả lời. Cần phối hợp nhịp nhàng giữa đặt câu hỏi, dẫn dắt học sinh trả lời, giảng và gi bảng. Ví dụ khi dạy bài: Từ tượng thanh( tiết 12_trang 95 _ TV5 tập 1) tôi đã hỏi học sinh: Thế nào là từ tượng thanh? Học sinh trả lời _ giáo viên sửa _ ghi bảng ( Từ mô phỏng tiếng người , loài vật hoặc các tiếng động gọi là từ tuợng thanh). Lấy những từ tượng thanh mô phỏng tiếng người? (Oa, oa, thì thào, the thé, sang sảng, khúc khích...) . Lấy ví dụ từ tượng thanh mô phỏng tiếng loài vật (Meo meo, ăng ẳng, líu lo, be be,...). Từ tượng thanh mô tả tiếng động (loảng xoảng, thình thịch, lách cách, lộp độp...). Sau đó cho vài học sinh đọc để nhớ khái niệm và cho thêm ví dụ. Dạy bài “Nghĩa của từ” tôi đặt câu hỏi: Thế nào là nghĩa đen? (nghĩa vốn có của từ). Thế nào là nghĩa bóng? (nghĩa được hiểu rộng ra từ nghĩa đen). Từ những ví dụ về nghĩa bóng em có nhận xét gì? (Mỗi từ Tiếng việt có thể có một hoặc nhiều nghĩa bóng). Dạy bài “Từ đơn, từ ghép, từ láy” tôi nêu một số câu hỏi: Từ như thế nào gọi là từ đơn? Trong bài thơ “Thư trung thu” của Bác Hồ, có những từ nào là từ đơn? Kể ra những từ đơn chỉ các đồ vật trong phòng học này? Từ như thế nào được gọi là từ ghép? Trong bài “Thư trung thu” những từ nào là từ ghép? Kể ra những từ ghép nói về việc học tập? Từ như thế nào gọi là từ láy? Tìm một số từ láy nói về đức tính tốt của người học sinh. Bước 3: Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập. Loại bài tập này dùng vào việc thực hành luyện tập của học sinh, giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức lí thuyết và vận dụng ấy vào hoạt động nói và viết. Ở phần này tôi luôn gợi ý dẫn dắt học sinh cách làm chứ không làm thay hoặc phó mặc học sinh. Tôi thường gọi 1,2 em đọc to rõ ràng yêu cầu của bài tập để cả lớp cùng nghe, tôi hướng dẫn học sinh lần lượt xác định từng yêu cầu của bài tập.Ví dụ bài tập” Tìm 4 từ láy đôi dùng để tả cảnh vật thiên nhiên. Đặt câu có nội dung miêu tả cảnh vật thiên nhiên đó.” TV5-Tập 1- trang 87) Tôi gợi ý: Yêu cầu thứ nhất: tìm 4 từ láy đôi- nên tìm 4 kiểu từ láy đã học dùng để tả cảnh thiên nhiên(ví dụ ồn ào, rập rờn, lăn tăn, lồng lộng...) tôi gợi ý tiếp: em tưởng tượng đến màu sắc, âm thanh, dáng vẻ... gắn liền với những chi tiết trong cảnh vật, từ đó sẽ tìm được từ láy đôi. Ví dụ: bầu trời cao lồng lộng, Mây trắng nhởn nhơ, Mặt hồ gợn sóng lăn tăn, chim chóc ríu rít, ong bướm rập rờn... Yêu cầu thứ 2, đặt 4 câu tách biệt cũng được, nhưng tốt nhất là 4 câu cùng tập tru ng vào tả một cảnh thiên nhiên nào đó. Đối với bài” Dùng từ đặt câu theo nghĩa đen, nghĩa bóng.” Trước hết tôi xác định cho học sinh nghĩa đen của từ, rồi từ nghĩa đen xuy ra nghĩa bóng. Danh từ “ nhà” ( nghĩa đen: chỉ ngôi nhà có mái, tường dùng để ở, nghĩa bóng: gia đình.) Động từ “đi”: nghĩa đen : sự di chuyển bằng chân của người hay động vật, nghĩa bóng: đi bộ, chuyển công tác đi, đi mất... Tính từ “ ngọt’ : nghĩa đen: vị ngọt của đường, hoa quả, nghĩa bóng: nói ngọt, rét ngọt... Từ gợi ý như vậy học sinh đã tìm được những câu văn hay: Mái nhà tôn cũ nhưng cũng đủ che nắng che mưa. ( Nhà với nghĩa đen.) Hè vừa qua, cả nhà con đi tắm biển ở Vũng Tàu .( Nhà với nghĩa bóng.) Nó đi còn tôi thì chạy.( Đi với nghĩa đen.) Những đàn chim bay đi tránh rét.( Đi với nghĩa bóng) Quả cam này rất ngọt.( Ngọt : nghĩa đen). Trời hôm nay rét ngọt. ( Ngọt: nghĩa bóng.) Cuối cùng là khâu kiểm tra, đánh giá kết quả làm bài tập của học sinh.Tôi đã sử dụng nhiều hình thức: Sử dụng các ví dụ mẫu đã cung cấp, lời giải mẫu của minh cho học sinh đối chiếu bài làm hay gọi học sinh lên bảng làm, gọi học sinh chữa miệng, đổi chéo vở cho nhau... Từng bước hình thành cho học sinh ý thức, thói quen và năng lực tự phát hiện, tự sửa chữa các lời trong phần bài giải của mình. Kiểu bài thực hành từ ngữ theo chủ đề. Nội dung: Các baì từ ngữ theo chủ đề này được trình bày làm 2 phần. Phần 1 là phần “ từ ngữ” đưa ra một bảng những gì cần đưa vào vốn từ tích cực của học sinh. Từ ngữ này được liệt kê làm hai nhóm: Danh từ ở trên, động từ , tính từ ở dưới nhưng có thể tách danh từ thành 2 dòng nếu bài là một chủ đề ghép ( ví dụ bài “ Chim rừng, thú rừng”) và tách động từ, tính từ ra làm 2 dòng. Trong một số bài còn có dòng thứ ba là dòng ghi những thành ngữ. Phần thứ 2 là phần luyện tập gồm các bài tập dạy nghĩa, hệ thống hoá và giúp học sinh luyện tập sử dụng từ ngữ. Phương pháp: Dạy mục “ từ ngữ ”: Ở lớp 5 có nhiều từ ngữ hơn, phạm vi từ ngữ cũng rộng hơn, tương ứng với các chủ đề cũng phong phú hơn lớp 2,3,4. Khi dạy tôi dùng một số câu hỏi hướng dẫn học sinh hệ thống hoá cá từ ngữ theo chủ đề. Ví dụ bài “Quân đội nhân dân” ( tiết 23- trang 82- TV5 tập 2.) Hỏi học sinh: Kể tên các đơn vị bộ đội? ( Tiểu đội, trung đội, đại đội ...) Các đơn vị bộ đội thường làm nhiệm vụ gì? ( Canh gác, luyện tập , trực ban , trực chiến , trinh sát ...) Bài” Các dân tộc trên đất nước ta ” ( tiết 27- trang 90-TV5 tập 2). Hỏi học sinh: Kể tên các dân tộc trên đất nước ta mà em biết ? ( Kinh, Tày, Nùng, Thái , Dao, Mường, HMông, Bana...) Ở vùng miền núi phía Bắc, làng còn gọi là gì? ( Bản). Còn ở miền núi phía Nam- Tây nguyên làng gọi là gì? ( Buôn). Việc đặt ra câu hỏi hướng dẫn học sinh hệ thống hoá từ ngữ sẽ hình thức được ở học sinh ý thức về tính hệ thống của từ ngữ, hình thành thói quen, tư duy hệ thống cho học sinh. Dạy mục “ Luyện tập”: Phần này bao gồm hệ thống bài tập thuộc nhiều kiểu loại khác nhau, có thể chia thành ba loại lớn, tương ứng với ba nhiệm vụ cơ bản của phân môn tù ngữ tiểu học. Đối với từng bài tập, muốn hướng dẫn học sinh làm bài tập ấy đúng phương hướng có hiệu quả, tôi luôn nắm mục đích, ý nghĩa, đặc trưng, tính chất, yêu cầu của bài tập. Hướng dẫn học sinh làm phần này gồm ba bước: Bước1: Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của bài tập. Muốn làm được bài tập, trước hết phải xác định đúng yêu cầu của bài tập. Có bài tập dễ, học sinh chỉ đọc qua là hiểu ngay yêu cầu của bài tập, nhưng có một số bài tập khó, học sinh chưa hiểu đúng hoặc hiểu sai, tôi phải hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của bài tập. Tôi thường làm là cho một, hai học sinh đọc to đề bài, cả lớp cùng nghe, sau đó cho các em gạch dưới các từ ngữ quan trọng trong bài tập, từ ngữ thể hiện các yêu cầu của bài tập, hoặc từ ngữ trừu tượng, khó hiểu cần làm rõ. Sau đó lần lượt xác định yêu cầu của bài tập. Ví dụ bài “ Nhân dân lao động” ( tiết 25- trang 87-tv tập 2), bài tập 4: So sánh nghĩa của từ: tiên tiến, suất sắc, ưu tú. Những từ đó là từ cùng nghĩa hay gần nghĩa. Tôi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu của và nhắc học sinh nhớ lại từ gần nghĩa hay cùng nghĩa. Sau đó giúp học sinh hiểu người lao động tiên tiến: người lao động đi hàng đầu trong nhiệm vụ lao động sản xuất, công tác. Người lao động xuất sắc là người lao động có thành tích trội hơn hẳn trong lao động sản xuất. Người lao động ưu tú: là người lao động thuộc loại tốt nhất, mẫu mực nhất. Từ việc tìm hiểu đầu bài như trên học sinh sẽ dễ dàng làm được ở bước luyện tập. Bài “ Các dân tộc trên đất nước ta ” ; Bài 4: “ Nhà sàn và lán khác nhau ra sao?” , Tôi phải cho học sinh hiểu nhà sàn ( nhà của đồng bào miền núi), lán ( nhà nhỏ làm bằng tre nứa trong rừng) . Từ đó học sinh sẽ so sánh được sự khác nhau. Bài: Tìm một số từ ghép được cấu tạo bởi tiếng đơn gốc Hán “ quân” ( quân đội) đứng trước, khi xác định yêu cầu của bài tập, tôi lưu ý học sinh: chỉ tìm các từ ghép gốc Hán có tiếng “ quân” với nghĩa là quân đội , còn các từ ghép gốc Hán có tiếng quân mang nghĩa khác thì không thuộc phạm vi yêu cầu của bài tập này. Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm bài tập, tôi thực hiện phương châm không “ làm thay” , cũng không “ khoán trắng” cho học sinh. Câu hỏi tôi nêu ra phải có tác dụng định hướng gợi mở cho học sinh giải bài tập. Đối với bài “Đặt câu với mỗi từ: cắp, ôm, bê, bưng, đeo, vác”, tôi cho học sinh hiểu nghĩa của từ và gợi ý cho học sinh khi nào ta có thể sử dụng một trong các từ trên. Từ đó học sinh mới đặt câu tốt được. Còn ở bài tập: Hãy chọn từ thích hợp : ( cuồn cuộn, lăn tăn, nhấp nhô) điền vào chỗ trống: Mặt hồ gợn sóng. Sóng lượn tren mặt sông. Sóng biển xô vào bờ. Tôi gợi ý như sau: Bốn từ cho trên là những từ gần nghĩa: Muốn lựa chọn được từ thích hợp để điền vào chỗ trống, con cần nắm được nghĩa xủa từng từ. Các từ điền vào phải hợp với văn cảnh. Ở từng chỗ trống, con lần lượt thử điền từng từ cho sẵn, nếu tạo ra một cụm từ có nghĩa hợp lý thì điền được. Trong hệ thống bài tập của học sinh có nhiều bài : điền từ thích hợp vào chỗ trống trong những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ. Ví dụ dạy bài “ Truyền thống dân tộc” có bài tập 2. Điền từ thích hợp vào chỗ trống trong những câu tục ngữ, ca dao sau đây: Uống nước nhớ... Ăn quả nhớ kẻ trồng... Giấy rách phải giữ lấy... Lá lành đùm lá... Muốn tìm và điền được từ thích hợp vào chỗ trống, tôi tiến hành cho học sinh lựa chọn từ( trong các từ cho sẵn , hoặc tự tìm trong vốn từ của mình). Và sau đó cho kết hợp từ đã chọn với những từ đứng trước, đứng sau. Muốn lựa chọn đúng ta phải nắm được ý nghĩa riêng của từng từ rồi đặt nó vào ô trống sao cho đúng ý nghĩa . Sau đó tôi hay hỏi học sinh nghĩa của từng câu để học sinh tự kiểm tra xem mình đã làm đúng chưa. Có thể hướng dẫn học sinh dựa vào chủ đề từ ngữ đang học, khả năng nhớ lại các thành ngữ, tục ngữ này. Khi hướng dẫn học sinh giải bài tập, tôi sử dụng nhiều hình thức: nói, đọc, viết hoặc nói, tô, vẽ, đánh dấu. Có bài trả lời miệng, có bài viết, có bài gạch, đánh dấu trong vở bài tập. Khi hướng dẫn thực hiện, tôi chia ra thành các mức độ cho phù hợp các đối tượng học sinh khác nhau. Giúp học sinh yếu kém bằng câu hỏi gợi mở. Làm theo tăng dần mức độ độc lập của học sinh . Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, học sinh suy nghĩ và thực hiện từ dễ đến khó. Bước 3: Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá bài tập đã làm. Tôi hướng dẫn đối chiếu bài tập đã làm với yêu cầu được đặt ra ở từng bài tập, hoặc đối chiếu bài tập đã làm với đáp án. Đối với những bài làm sai tôi phân tích để học sinh thấy lỗi sai và biết cách sửa chữa . Để học sinh học tốt môn từ ngữ, trong các giờ lên lớp ở môn từ ngữ tôi đã chú ý sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học và để tạo hứng thú cho học sinh, tôi đã phát huy tính tích cực của học sinh, làm cho hoạt động trên lớp nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, phù hợp hơn với lứa tuổi tiểu học. Sử dụng đồ dùng dạy học trong phân môn từ ngữ. Để học sinh nắm được bài và khai thác từ ngữ, mở rộng vốn từ cho học sinh, tôi đã chú ý sử dụng: Tranh ảnh, vật thực: Có bài tôi vẽ phóng to theo nội dung trong sách giáo khoa. Ví dụ: Tranh minh hoạ cho chủ đề: “Quân đội nhân dân” (trang 82-83), bài “Từ gần nghĩa” (trang 85), “Từ cùng âm khác nghĩa” (trang 94-95). Có bài tôi sử dụng ảnh sưu tầm được: bài “Truyền thống dân tộc” với các di tích lịch sử (Đền Hùng, gò Đống Đa, Văn Miếu, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh) (trang 78), bài “Chim chóc” (tiết 15) ảnh: vịt, gà, ngan... Khi giảng từ “hoa hồng” (tiết 16 – Bài “Hoa-quả”), tôi mang các loại hoa hồng đến, cùng sản phẩm hoa hồng: nước hoa. Và tôi còn mua một số loại quả đặc trưng để giảng. Sử dụng phương tiện hiện đại: Máy chiếu: Tôi dùng máy chiếu trong các bước lên lớp: Chữa bài tập, ghi lại các phần bài học cần nhớ và trong phần củng cố bài để cả lớp cùng nhìn rõ, hình thức này theo tôi rất hay đỡ mất công ghi bảng phụ, chiếu một lúc được nhiều bài. Tôi xin giới thiệu một số bài điển hình tôi đã đưa lên máy. Dạy bài “Các dạng từ láy” tôi chiếu lên máy chiếu phiêu bài tập (Sau đó có bài chữa mẫu, bài học sinh làm). Trường tiểu học Cát Linh Họ và tên: Lớp 5A PHIẾU HỌC TẬP MÔN TỪ NGỮ Tiết 7: Các dạng từ láy Bài 1: Tìm từ láy đôi và từ láy ba của môic từ đơn sau: Từ đơn Từ láy hai tiếng Từ láy ba tiếng Xinh ...................................... Xốp ...................................... Tìm từ láy tư của mỗi từ láy đôi sau: Từ láy hai tiếng Từ láy 4 tiếng Mênh mông Vội vàng .................................................. .................................................. Bài 2: Tìm từ láy dùng để diễn tả thái độ, hành động của một người: .............................................................................................................. Đặt câu với mỗi từ láy đó: .............................................................................................................. ............................................................................................................. Bài 3: Viết một đoạn văn ngắn (từ 2 đến 3 câu) có dùng từ láy đôi để tả cảnh thiên nhiên: .............................................................................................................. .............................................................................................................. .............................................................................................................. .............................................................................................................. Củng cố bài, tôi đưa một bài thơ (Tự sáng tác) và bài văn để học sinh nắm chắc và nhận dạng từ láy. Tìm các dạng từ láy trong đoạn thơ, đoạn văn sau: Chú mèo nhỏ Xỉnh xình xinh Chạy linh tinh Rình bắt chuột, Tuốt tuồn tuột Từ chuột nhỏ Đến chuột to, Mèo sẽ ăn Cho bằng hết. Khi thấm mệt Chạy ra sân, Nằm khoanh chân Mắt lim dim Mèo sưởi nắng. .. Nhìn theo tay mẹ vẫy vẫy, bé lẫm chẫm bước, mắt nheo nheo cười. Đi được vài bước, bé dừng lại, rồi chập chà chập chững đi tiếp... Đôi chân bé bước từng bước loạng choạng, cái mông núng na núng nính, thân hình lắc lư, trông rất ngộ. Dạy bài “Nghĩa của từ”, tôi chiếu lên máy từng bài làm của học sinh khá, giỏi, để cả lớp học tập. Phần củng cố là một số đoạn thơ của Nguyễn Du, thơ Bác Hồ để học sinh nắm chắc bài. Xác định nghĩa đen, nghiac bóng của từ “xuân” trong các câu sau đây: - Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non. Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân. Ngày xuân con én đưa thoi. Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán. So với ông Bành vẫn thiếu niên. Khi người ta đã ngoài bảy mươi xuân thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Tổ chức trò chơi. Tôi thường tổ chức các trò chơi trong giờ học để học sinh nắm chắc bài một cách nhẹ nhàng. Trò chơi “Hái hoa dân chủ’ để kiểm tra nhận biết các từ láy trong các đoạn thơ, đoạn văn, bài hát(ở tiết “Các kiểu từ láy”, “Các dạng từ láy”...). Thi giữa các đội để giành huy chương vàng giữa hai đội, tìm nhanh nghĩa đen, nghĩa bóng trong bài tập 3 (Nghĩa của từ). Thi giữa các cá nhân để giành danh hiệu “Vô địch”. Ví dụ khi dạy bài “Các dạng từ láy”, xem ai tìm được nhiều dạng từ láy, và nhận biết được đúng các dạng từ láy đã tìm... Trong lúc chơi trò chơi, học sinh đã nắm được bài một cách nhẹ nhàng hợp với lứa tuổi tiểu học và sau đó các em rất háo hức đón nhận những điểm số, nhận xét của cô cũng như những chiếc kẹo các kiểu được tôi chuẩn bị thành những huy chương vàng, huy chương bạc.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_day_mon_tu_ngu_lop_5.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Dạy môn từ ngữ Lớp 5.pdf