Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phát huy tính tích cực trong môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số

Do đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, học sinh lớp 1 hay bắt chước, làm theo nhưng cũng chóng chán, mau quên vì khả năng tập trung của các em chưa cao. Đặc biệt đối với học sinh lớp Một dân tộc thiểu số thì càng khó khăn hơn. Chính vì vậy để giúp các em có khả năng ghi nhớ tốt phải tạo sự hứng thú trong học tập và phải cho các em được tập luyện, ôn tập thường xuyên. Trẻ lớp Một rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên rất dễ hình thành cảm xúc mới. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ. Trẻ dễ xúc động nhưng hình ảnh lại chưa bền vững dễ mất đi vì tính mục đích chưa cao. Do vậy trong giờ dạy giáo viên phải gây sự chú ý cho học sinh. Có như vậy thì mới tạo ra nhiều xúc cảm đọng lại thông qua bài học và các hoạt động khác để củng cố, khắc sâu kiến thức. Học sinh lớp Một dân tộc thiểu số trường Tiểu học Võ Thị Sáu nhiều em chưa nhận biết và nhận biết còn lẫn lộn các chữ cái với nhau, còn phát âm sai các tiếng có phụ âm n, l , b , v , t , th, ph; vần ân, âng, ... Phần lớn các em còn đọc thiếu dấu thanh.

Dạy Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc , viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Cung cấp cho các em những kiến thức sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hoá, văn học của Việt Nam ….Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh. Mục tiêu dạy tiếng Việt ở Tiểu học rất chú trọng đến việc hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt, do vậy việc hướng dẫn học sinh lớp Một các kĩ năng thực hành Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) là điều rất quan trọng.

Ở lớp Một, mục tiêu dạy học tiếng Việt nhằm hình thành những yêu cầu cho các em có kiến thức và kĩ năng cơ bản về: Đọc đúng và rõ ràng bài văn đơn giản. Hiểu nghĩa của các từ ngữ thông thường và nội dung thông báo của câu văn, đoạn văn. Viết đúng chữ viết thường, chép đúng chỉnh tả đoạn văn, nghe hiểu lời giảng và lời hướng dẫn của giáo viên. Nói rõ ràng, biết trả lời câu hỏi đơn giản.

Quá trình dạy học gồm hoạt động có quan hệ hữu cơ: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực chủ động, tự giác với một động cơ nhận thức đúng đắn. Luôn luôn phát huy tích cực, chủ động trong hoạt động học tập của học sinh ở mỗi tiết học, đó chính là dạy học tích cực.

Dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh đòi hỏi người dạy phải coi trọng việc tổ chức các hoạt động của học sinh, tạo điều kiện để học sinh tìm tòi, tiếp nhận tri thức, tạo điều kiện để các em chủ động, chú ý hình thành khả năng tự học của mình.

Dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh có tác dụng phát huy tính độc lập sáng tạo, hình thành thói quen tự học, nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học, đảm bảo tính toàn diện, giúp học sinh: Nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến thức, luôn củng cố và phát triển cách học của mình, giúp học sinh có tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể, có tinh thần hợp tác với bạn bè.

doc 20 trang Thu Nga 20/03/2025 200
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phát huy tính tích cực trong môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phát huy tính tích cực trong môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phát huy tính tích cực trong môn Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 dân tộc thiểu số
i vần uôm – ươm đều có âm m ở cuối, khác nhau vần uôm có nguyên âm đôi uô, vần ươm có nguyên âm đôi ươ, do sự khác nhau đó nên ta đọc và viết khác nhau. Như vậy các em đã biết so sánh sự giống và khác nhau giữa các vần,.
 Khi dạy chủ đề luyện nói ''Nhà trẻ '' bài 26: y – tr trang 54 sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 1, tôi đặt câu hỏi để học sinh so sánh việc học ở nhà trẻ và học ở lớp 1 có gì giống và khác nhau. Nhà trẻ khác lớp Một ở chỗ nào? ( Đi nhà trẻ khác với đi học lớp Một là ở nhà trẻ giờ chơi nhiều hơn, có nhiều đồ chơi hơn, các con vừa học lại vừa chơi còn ở lớp 1, giờ chơi ít hơn, không có đồ chơi chỉ được tham gia trò chơi khi cô giáo tổ chức.)
 Với bài 21: Ôn tập trang 44 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 tập 1, sau khi hình thành xong bảng ôn vần, để học sinh phân biệt khi nào viết k. Tôi hỏi: Nhìn vào bảng ôn tập, ta thấy k đứng trước âm nào? Học sinh phải quan sát bảng ôn để nêu được k đứng trước âm ( i, e, ê ). Các âm a, u, ư không thể ghép với âm k. Bằng những câu hỏi suy luận tôi dùng đã yêu cầu học sinh tìm hiểu nguyên nhân sự việc, vận dụng kiến thức vào bài học, khái quát hoá kiến thức.
 Hoặc bài 63: em - êm: khi học chủ đề luyện nói '' Anh chị em trong nhà '' tôi hỏi: Anh chị em trong nhà phải làm gì? Anh chị em trong nhà phải biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Như vậy các em đã biết liên hệ thực tế về bản thân mình.
 Khi tìm hiểu nội dung bài Bàn tay mẹ trang 55, sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2, tôi đã dùng hệ thống câu hỏi huy động sự chú ý của cả ba đối tượng học sinh như sau: 
 + Vì sao Bình yêu nhất đôi bàn tay của mẹ? Vì đôi bàn tay của mẹ phải làm biết bao nhiêu việc.
 + Bàn tay mẹ làm những việc gì cho chị em Bình? Mẹ đi chợ, nấu cơm, tắm cho em bé, giặt một chậu tã lót đầy.
 + Đọc câu văn diễn tả tình cảm của Bình với đôi bàn tay mẹ? Bình yêu lắm đôi bàn tay rám nắng, các ngón tay gầy gầy, xương xương của mẹ.
 + Em hiểu thế nào là gầy gầy, xương xương? 
 + Em làm gì để tỏ lòng kính yêu mẹ? 
 Mỗi câu hỏi đưa ra, tôi đều giành thời gian cho học sinh suy nghĩ, tạo tính thu hút sự chú ý của các em. Rồi khuyến khích những học sinh rụt rè, chậm chạp trả lời trước, các em mạnh dạn trả lời sau. 
 Biện pháp thứ ba: Tổ chức '' Trò chơi học tập ''
 Trò chơi học tập là một loại hoạt động không thể thiếu được trong mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển cả về năng khiếu lẫn tư duy. Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý những đặc tính: Vui - Khoẻ - An toàn - Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư giản...được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi. Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. ''Học mà chơi, chơi mà học '' tạo cho các em hứng thú và niềm tin trong học tập, duy trì được khả năng chú ý của các em trong tiết học. Trò chơi học tập không chỉ nhằm giải trí mà còn góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh. Việc sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn kĩ năng bớt đi khó khăn, có thêm sự sinh động, hấp dẫn, phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh, rèn cho học sinh tính mạnh dạn, tính thi đua, tính kỉ luật... do đó hiệu quả học tập của các em cao hơn. Vì vậy khi tổ chức trò chơi học tập, tôi đã soạn thảo nội dung trò chơi gắn liền với mục tiêu của bài học, luật chơi đưa ra rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, điều kiện và phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, hấp dẫn, sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ. Có như vậy mới kích thích sự thi đua giành phần thắng cho các em bên tham gia.
 Ví dụ : Dạy bài 77: ăc, âc trang 156 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1 Tôi tổ chức cho các em trò chơi Tìm chữ bí ẩn. Đầu tiên, tôi giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và phổ biến luật chơi, chia nhóm rồi phát cho mỗi nhóm một hộp có đựng các tiếng, từ chứa vần ăc, âc tiến hành cho các em chơi. Ngoài những tiếng từ có sẵn trong hộp, tôi khuyến khích các em khá giỏi tự tìm ghép tiếng, từ khác. Trong thời gian học sinh chơi, tôi theo dõi nhắc nhở các em. Sau khi hết thời gian chơi, tôi tiến hành đánh giá kết quả chơi. Tôi động viên, khen ngợi tinh thần khi tham gia trò chơi của các em, rồi cho các em đọc lại tiếng, từ vừa tìm được như vậy các em sẽ nắm chắc kiến thức vừa học. 
 Hay khi dạy bài 80: ich, êch trang 162 sách giáo Tiếng Việt lớp 1 tập 1, tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi nhìn tranh, vật thật đoán chữ. Tôi đã gắn lên bảng tranh chụp con cá diếc, cái lược, thước kẻ, gọi các em lên bảng gắn từ tương ứng dưới mỗi hình ảnh. Trò chơi này giúp các em nhớ vần mới, tìm nhanh các tiếng có vần mới, đọc và viết các tiếng, từ đó. 
 Hoặc khi dạy bài 83: Ôn tập, tôi đã tổ chức cho các em trò chơi hái hoa dân chủ. Tôi chuẩn bị một số bông hoa bằng giấy trên mỗi bông hoa ghi một từ có âm hoặc vần mới học ở mặt giấy phía trong. Các em lần lượt lên hái rồi đọc từ ghi ở bông hoa. Đối với các em khá, giỏi sau khi đọc xong học sinh phải nói một cụm từ hoặc một câu trong đó có các từ đã học. Thông qua trò chơi giúp các em luyện nhẩm đánh vần nhanh để đọc trơn cả tiếng, cả từ. dùng từ đã học để tạo từ ngữ hoặc câu ngắn.
 Với những trò chơi mà tôi đã tổ chức trong các giờ học đã tạo cho các em sự chú ý, tinh thi đua, khắc sâu kiến thức. Thông qua việc tổ chức các trò chơi này, tôi nhận thấy để trò chơi có hiệu quả, ngoài việc chuẩn bị trò chơi thì việc lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung bài cũng là điều quan trọng.
 Biện pháp thứ tư : Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học
 Việc vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học sẽ có tác dụng rất lớn đến hiệu quả giảng dạy. Học sinh được luyện tập kĩ năng đọc, viết theo nhiều hình thức, chống học vẹt. Giúp các em ghi nhớ bằng nhiều giác quan cách đọc, cách viết mà không nhàm chán và ghi nhớ bài học tốt hơn. Là cơ hội để các em đều luyện đọc, luyện viết, luyện nói, được làm việc tập thể theo nhóm, học cách hợp tác với bạn bè trong học tập. Nó tạo môi trường thuận lợi cho việc giao tiếp, cho việc rèn luyện 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết). 
 Khi dạy một tiết học vần, tôi đã cho các em đọc thành tiếng trên bảng lớp, trong sách giáo khoa; đọc thầm trong sách giáo khoa. Thực hiện song song với việc luyện đọc thì luyện viết cũng không kém phần quan trọng. Các em được luyện viết vào bảng con, viết trên bảng lớp, viết trong vở tập viết. Sau khi đọc, viết thành thạo, tôi tổ chức cho các em tập nói câu, nói theo chủ đề. Khi tổ chức các hình thức học tập, tôi đã kết hợp sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, tận dụng thế mạnh của mỗi hình thức học tập trong quá trình dạy học như các hình thức: cá nhân - theo nhóm - cả lớp thích hợp với các nội dung học tập. Trong quá trình thực hiện, tôi luôn luôn gần gũi, kịp thời khen ngợi, ghi nhận những tiến bộ của học sinh, động viên các em tiếp tục phát huy, tạo sự tự tin trong học tập cho các em. Đối với các em khá giỏi tôi khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn. 
 c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
 Để thực hiện các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải chủ động, sáng tạo, lập kế hoạch phù hợp cho từng hoạt động trong mỗi tiết dạy đặc biệt là đối với từng đối tượng học sinh trong lớp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học phải đầy đủ. Phải được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, sự phối hợp giữa các giáo viên dạy luân phiên, dạy bộ môn và sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp.
 d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
 Các giải pháp, biện pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng là cầu nối tạo nên thành công trong việc dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy. Vì nếu chỉ chuẩn bị và sử dụng tốt đồ dùng dạy học song hệ thống câu hỏi đưa ra không phù hợp thì chưa tạo được sự chú ý của các em, hiệu quả tiết học sẽ không cao và ngược lại. Làm tốt hai biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học và sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp nhưng không biết vận dụng các hình thức tổ chức dạy học và tổ chức các trò chơi học tập không linh hoạt thì giờ học sẽ không thoải mái, không hấp dẫn, không phát huy được tính tích cực của học sinh. Chính vì thế người giáo viên phải biết kết hợp hài hòa giữa các biện pháp thì tiết học sẽ diễn ra nhẹ nhàng đạt kết quả cao, các em tự giác tích cực chủ động hơn, giờ học sôi nổi hơn. Đây chính là cơ sở vững chắc nâng cao chất lượng học tập cho các em, là cơ sở để học tốt các lớp học trên. Thông qua đó các em có vốn kiến thức để vận dụng vào cuộc sống lao động hằng ngày. 
 e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
 * Kết quả khảo nghiệm: Do mới được làm quen với môi trường mới, do đặc thù, thói quen tập quán nên các em rất chậm chạp trong việc học tập, chưa thể hiện được kĩ năng, kĩ xảo. Bởi vậy chất lượng khảo sát đầu năm gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng sau một thời gian kiên trì, miệt mài tìm ra những giải pháp để khắc phục những yếu kém đã mang lại kết quả qua các lần đánh giá, kết quả cụ thể như sau: 
Thời gian
TSHS
Trên trung bình
Dưới trung bình
SL
%
SL
%
Đầu năm học 2013 – 2014
20
8
40,0
14
60,0
Cuối học kì I
20
14
60,0
6
30,0
Cuối năm học
20
17
85,0
3
15,0


Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Đầu năm học 2014 – 2015
24
13
54,2
11
45,8
Cuối học kì I
24
21
87,5
3
12,5

 * Giá trị khoa học: Với mục tiêu phát hiện những yếu kém, khắc phục những khó khăn trong giảng dạy, trong việc học tập của học sinh lớp Một dân tộc thiểu số, nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy học. Sau khi nghiên cứu và thực hiện các giải pháp trên cho thấy học sinh có ý thức động cơ học tập; tính tích cực, tự giác, chủ động của các em cao hơn; giờ học sôi nổi; chất lượng dạy học nâng cao. 
 II. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
 * Kết quả thu được 	qua khảo nghiệm: Qua quá trình vận dụng các biện pháp nêu trên một cách linh hoạt sáng tạo cùng với sự cố gắng học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay, các em đã có ý thức tự giác tích cực chủ động, thích tham gia các hoạt động học tập, giờ học sôi nổi. Số học sinh chưa hoàn thành về năng lực giảm dần, số học sinh hoàn thành về năng lực nâng cao dần theo thời gian. Đa số các em đều ngoan, chăm học, ý thức học tập tốt. Không còn tình trạng học sinh lười học. Lớp đạt nhiều thành tích trong các hội thi cụ thể đạt 03 giải trong Hội thi giữ vở sạch – viết chữ đẹp, có 3 học sinh được công nhận học sinh viết chữ đẹp cấp huyện và 05 học sinh tham gia giải toán trên mạng. Cuối học kì I có 11 em được Hiệu trưởng tặng giấy khen về học tập.
 * Giá trị khoa học mang lại khi thực hiện đề tài: Đề tài được áp dụng có hiệu quả trong trường cũng như đối với những trường có học sinh dân tộc thiểu số. Chất lượng học tập được nâng lên rõ rệt. Phát huy được tính năng động sáng tạo của giáo viên. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả giáo dục cả về học tập lẫn phẩm chất của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt, chất lượng dạy và học được nâng cao. Các em ngày càng chăm ngoan yêu trường yêu lớp, tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập, giờ học sôi nổi. Học sinh không còn tâm lí nhút nhát trong học tập cũng như trong giao tiếp, tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường. 
 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
 III. 1. Kết luận 
 Dạy học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực, sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy. Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi luôn xác định rằng trước hết mình phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã hội. Muốn nâng cao hiệu quả và tạo sự hứng thú học tập trong quá trình giảng dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu, lựa chọn phương pháp dạy học có hiệu quả. Sử dụng tối đa đồ dùng dạy học và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng môn học. Có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội. Cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
 Thực hiện tốt chỉ thị “Hai không” của Bộ GDDT; bám sát chủ đề năm học để lên kế hoạch tháng, tuần cho phù hợp và khoa học.
 Giáo viên cần phải chuẩn bị rất chu đáo về mọi công việc như: đồ dùng dạy học, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng. Đồng thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá, giỏi. Có như vậy thì giờ dạy mới đạt hiệu quả.
 III. 2. Kiến nghị 
 a. Đối với nhà trường
 Thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác dạy học.
 Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.
 Có thêm nhiều sách tham khảo.
 b. Đối với địa phương, gia đình
 Uỷ ban nhân xã phải có biện pháp hỗ trợ nhà trường đối với những HS thường xuyên nghỉ học hay bỏ học.
 Uỷ ban nhân xã cũng nên có quỹ khuyến học cho những HS vượt khó, HS có hoàn cảnh khó khăn.
 Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều hơn.
Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con em. Cần mua sắm đồ dùng học tập cho con em đầy đủ.
 c. Đối với giáo viên 
 Giáo viên phải là người làm chủ lớp học, thiết lập bầu không khí thân thiện tích cực, chủ động giải quyết mọi tình huống bảo đảm yêu cầu sư phạm. 
 Cần chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch bài giảng, sử dụng hợp lý sách giáo khoa và sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học, phương tiện trực quan, phương tiện nghe nhìn; ứng dụng hợp lý công nghệ thông tin, thực hành. 
 Giáo viên nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết, dẫn dắt học sinh tự đưa ra kết luận cần thiết. Dạy phải sát đối tượng, coi trọng bồi dưỡng học sinh khá giỏi và kiên trì giúp đỡ học sinh học lực yếu kém.
 Trên đây là một vài kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực chủ động trong môn Tiếng Việt lớp Một đối với học sinh dân tộc thiểu số mà tôi đã thực hiện. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng tôi hy vọng với kết quả đạt được ở trên sẽ góp phần nhỏ bé nâng dần chất lượng giáo dục của nhà trường ngày một tốt hơn. Rất mong được sự góp ý của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm và các bạn đồng nghiệp.
 Xin chân thành cảm ơn!
 Ea Bông, ngày 19 tháng 1 năm 2015
 Người thực hiện
 Trần Thị Minh
 TÀI LIỆU THAM KHẢO








STT
TÊN TÀI LIỆU
TÁC GIẢ/NHÀ XUẤT BẢN
GHI CHÚ
1
Giáo dục học 

Nguyển Sinh Huy-NXBGD- 1997)Vụ Giáo dục Tiểu học –NXB Giáo dục Việt Nam
 
2
Tâm lý học 

Phạm Minh Hạc- NXB Giáo dục - 1996
 
3
3.Luật giáo dục 

(NXB Chính trị Quốc Gia-1998)
 
4
 4.Dự án GD tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn 

Bộ GDSX năm 2005
 
5
 Chuyên đề : Một số PP và Hình thức tổ chức dạy học 

Nguyễn Đức Hoành -2006
 
6
Điều lệ trường tiểu học.
 Bộ Giáo dục và Đào tạo
 

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP TRƯỜNG
.. 
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP HUYỆN
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_phat_huy_tinh_tich_cuc_trong_m.doc