Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phân hoá trong môn Tiếng Việt Lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN
Xu hướng dạy học phân hóa ở nhiều nước được thực hiện bằng cách định hướng hoặc phân luồng cho học sinh ở các môn học tự chọn. Các định hướng này tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất phát từ chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ có thể có sự phát triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách thức phù hợp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học”.“Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên lớp đã có ý thức chuẩn bị công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ nhận thức chung của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.
Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi nhọn", giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện chung đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên trình độ trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phân hoá trong môn Tiếng Việt Lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN

n yếu, tốc độ đọc viết chưa đạt yêu cầu so với chuẩn kiến thức kĩ năng. Viết còn sai nhiều lỗi chính tả. Chưa viết trọn vẹn được một đoạn văn theo yêu cầu. Còn lẫn lộn các mẫu câu đã được học. Việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng đối với những học sinh này đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn đối với học sinh khác. Song song với việc giảng dạy trên lớp, tôi tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém để phụ đạo. Nội dung giúp đỡ học sinh yếu kém nhằm vào những phương hướng như đảm bảo trình độ xuất phát của học sinh, trang bị cho các em những tiền đề cần thiết để đảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp. Lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng, đây là một điểm yếu rõ nét và phổ biến của học sinh yếu kém. Thông qua những giờ học tôi tập cho học sinh có ý thức phát hiện ra lỗ hổng kiến thức của mình và biết tra cứu tài liệu, sách vở để tự lấp lỗ hổng đó. Tôi đấu tranh kiên trì với thói xấu của học sinh chưa đọc kĩ yêu cầu của bài đã làm bài tập. * Tổ chức những pha phân hóa trong giờ sinh hoạt ngoại khóa Mục đích của dạy học ngoại khóa là gây hứng thú cho học sinh tập bổ sung, đào sâu mở rộng kiến thức nội khóa, tạo điều kiện gắn kết học sinh với đời sống, lý thuyết với thực hành. Rèn luyện cách thức làm việc tập thể. phân hóa phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu. Dạy học ngoại khóa bổ sung nội khóa nhưng không bị hạn chế bởi chương trình và cách thức dạy học trong giờ chính khoá. Thực hiện tốt nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với lao động xã hội. Việc dạy học ngoại khóa nên có tính chất quần chúng để học sinh thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình với tập thể. Ví du: Trong tiết sinh hoạt câu lạc bộ của mỗi tháng, tôi tổ chức cho học sinh sinh hoạt từng nhóm theo sở thích. Nhóm thích hội họa, hóm mê múa hát, nhóm thích đọc thơ, nhóm giải toán vui tài năng, nhóm giỏi Tiếng Anh. Sau thời gian giao lưu thảo luận chuẩn bị nội dung để biểu diễn trong nhóm về cùng một chủ đề là mừng ngày 20 / 11 Ngày Nhà giáo Việt Nam, các nhóm sẽ quay quần để giao lưu trong cùng một nhóm lớn. Lúc này tôi khuyến khích các nhóm trổ tài theo khả năng và sở thích của từng nhóm trước cả lớp. Sau những lần như thế tôi thường động viên các em bằng những tràn pháo tay giòn vang hoặc là 5 bông hoa, 5 ngôi sao, 5 con vật gâp bằng giấy cho những nhóm xuất sắc. Chính vì thế các em rất hào hứng, năng nổ, tích cực chuẩn bị nội dung để giành giải thưởng của cô. c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, của các đồng nghiệp, của cộng đồng, đặt biệt là sự hưởng ứng tích cực của học sinh khối lớp 3 nhất là học sinh lớp 3 A giúp cho đề tài tiến hành một cách thuận lợi. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp và các biện pháp đã nêu có tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau. Nếu thực hiện tốt các giải pháp này tức là người giáo viên đã lấy sự tiến bộ của HS để chỉ đạo mọi hành động. Một điều quan trọng trong dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là phải lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng. Các giải pháp nhằm khích lệ giáo viên phát huy nội lực, trách nhiệm ... trên cơ sở đó tránh được tình trạng đối phó với thực hiện cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Qua khảo nghiệm, tôi có thể khẳng định thêm một lần nữa việc dạy học theo quan điểm phân hoá là thiết thực. Các biện pháp đó vừa quan trọng vừa cần thiết, đáp ứng yêu cầu dạy học phân hóa, đem lại tính chiến lược lâu dài mà trong công tác dạy học mà mỗi giáo viên cần hướng tới. Từ kết quả khảo nghiệm và lấy ý kiến của các đồng nghiệp đều có đánh giá chung các biện pháp đề xuất trong đề tài là thật sự cần thiết, có tính khả thi và tính phù hợp với dạy học phân hóa. Các biện pháp đưa ra có thể áp dụng rộng rãi trong thực tiễn, có tác động tích cực vào thực tiễn, có giá trị nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục. Các biện pháp đề xuất nhằm góp phần đổi mới sâu hơn, sát thực hơn phương pháp dạy học. Nhằm phát huy được tối đa năng lực, sở trường riêng của mỗi học sinh. Một biện pháp giáo dục chỉ được xác định giá trị đích thực của nó khi được áp dụng vào thực tiễn một cách nghiêm túc, có trách nhiệm, có tâm và có tầm đích thực của một người thầy. Nghĩa là cần tiến hành thật công phu trong mỗi tiết dạy. Quá trình thử nghiệm được thực hiện vào các phân môn của môn Tiếng Việt trong tuần, mỗi tuần 8 tiết vào tháng 9 năm học 2014 - 2015. Tôi đã tiến hành dạy học theo quy trình phân hoá và nội dung bài học như trong đề tài đã trình bày đối với lớp 3 và chưa có thời gian áp dụng đối với các lớp khác. Tôi đã vận dụng nhiều phương pháp dạy học chủ yếu là dạy học theo nhóm đối tượng học sinh và bổ sung phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề; dạy học phân hóa; đàm thoại gợi mở... và một số hình thức dạy học phát huy tối ưu và tối đa hoạt động của học sinh như: dạy học phân nhóm theo khu vực học tập, dạy học cá thể hoá... Qua đó phát huy tốt vai trò của người giáo viên, là người tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Học sinh có khả năng tiếp nhận kiến thức mới và nắm được cách thực hiện các yêu cầu của các dạng bài thực hành trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Một số bài thực hành học sinh chưa thực hiện trọn vẹn được, nhưng sau khi có gợi ý của giáo viên thì các em đã hoàn thành tốt yêu cầu của bài tập. Sau đợt thử nghiệm, học sinh đã nắm bắt được các hoạt động trí tuệ cơ bản trong môn Tiếng Việt như tìm hiểu yêu cầu của đề bài, cách diễn đạt khi nói, khi viết theo chủ đề. Biết đọc diễn cảm, cảm nhận được nét đẹp qua các câu chuyện trong phân môn tập đọc. Biết dùng từ, dùng câu có hình ảnh qua các bài tập làm văn. Đặc biệt các em rất giàu cảm xúc khi viết về một chủ đề nào đó trong phân môn Tập làm văn. Hạn chế được những khó khăn, sai lầm, những lỗi chính tả thường gặp khi nói và khi viết và khi giao tiếp với mọi người xung quanh. Qua đó tôi thấy học sinh ở lớp thử nghiệm nắm vững kiến thức cơ bản, học sinh yếu kém bước đầu có sự tiến bộ đã hình thành một số kĩ năng cơ bản, học sinh khá giỏi được bồi dưỡng nâng cao trên cơ sở nắm vững kiến thức cơ bản, các em có khả năng phát huy được hoạt động trí tuệ và vận dụng kiến thức linh hoạt. Nếu thường xuyên áp dụng dạy học theo định hướng trên thì có tác dụng rất tốt trong việc gây hứng thú trong học tập cho học sinh, lôi cuốn học sinh vào các hoạt động học tập tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo, giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng trong môn Tiếng Việt. II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu TS HS lớp 3 A Đầu năm Cuối HKI 31 Điểm trên TB Điểm dưới TB Điểm trên TB Điểm dưới TB 24 em 7 em 31 em 0 em Tỉ lệ 77,4 22,6 100 0 Tại lớp 3 A điểm trung bình khảo sát đầu năm có 7 em yếu môn Tiếng Việt. Cuối kì I có 100% học sinh điểm từ trung bình trở lên. Trong quá trình học tập đa số các em đều có ý thức học tập tích cực. Tham gia vào các hoạt động học tập một cách chủ động, hào hứng. Từ kết quả của thực nghiệm cho thấy khi GV được giao tự chủ, được bồi dưỡng giảng dạy theo quan điểm dạy học phân hóa một cách có hệ thống, HS sẽ nắm bài vững hơn, sâu hơn, chất lượng học tập được nâng lên rõ rệt. Dạy học phân hoá nói chung, dạy học phân hoá trong môn Tiếng Việt nói riêng ở trường tiểu học. Qua tổ chức thực nghiệm ở lớp 3 A trường tiểu học Lý Tự Trọng, kết quả thực nghiệm phần nào kiểm nghiệm được tính khả thi và kết quả của sáng kiến. III. Phần kết luận, kiến nghị III.1. Kết luận: Thực tế giảng dạy cho thấy không có một phương pháp dạy học nào là tối ưu, nhưng người giáo viên chúng ta có thể phối kết hợp các phương pháp, phương tiện dạy học một cách chủ động, linh hoạt trong giờ học để có được hiệu quả cao nhất. Việc phân hóa từng bộ phận của quá trình dạy học thường dễ thực hiện và đạt hiệu quả cao hơn khi áp dụng cho cả một quá trình. Vì thế, trong quá trình thực hiện tôi áp dụng dạy học phân hóa kết hợp với những phương pháp dạy học khác nhau, sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau phù hợp trong các giờ học. Sự phối hợp các xu hướng dạy học không truyền thống có khả năng nâng cao hiệu quả và chất lượng giờ học. Mỗi phương pháp dạy học đều có ưu, nhược điểm khác nhau khi thực hiện một quá trình dạy học, tuy nhiên chúng ta cần cân nhắc ưu nhược điểm của từng phương pháp để có thể dùng xen kẽ, bổ trợ cho nhau. Chẳng hạn, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, đặc biệt là trong những tình huống dạy học cung cấp các tri thức mới. Nếu trong hệ thống câu hỏi dẫn dắt, chúng ta kết hợp phương pháp dạy học phân hóa sẽ giúp cho tất cả các đối tượng học sinh cùng tham gia khám phá tri thức mới tùy theo khả năng nhận thức của từng em. Có nhiều ý kiến cho rằng, chỉ có những học sinh khá giỏi, có năng lực học tập Tiếng Việt, có tư duy nhanh, ghi nhớ nhanh mới có khả năng khám phá những tri thức mới bằng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vần đề. Song, trong thực tế không hoàn toàn như vậy. Trong hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh đi tìm tri thức mới, chúng ta cần quan tâm đến những câu hỏi mang tính tái hiện tri thức, những câu hỏi không đòi hỏi tư duy sâu để giúp học sinh trung bình, yếu kém cùng tham gia, hòa mình vào khí thế học tập chung của lớp. Phương pháp dạy học chương trình hóa cũng có nhiều ưu điểm góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của từng học sinh. Ở phương pháp này chúng ta dễ dàng đánh giá được năng lực học tập, sự tiến bộ và những sai lầm của từng học sinh. Để áp dụng được phương pháp này cần phải đầu tư rất nhiều thời gian công sức, kể cả vật chất, chương trình biên soạn rất cồng kềnh. Chính vì vậy, nên sử dụng phương pháp này trong từng bộ phận của quá trình dạy học. Như vậy, trong dạy học phân hóa, giáo viên có thể sử dụng kết hợp tất cả các phương pháp dạy học đang tồn tại trong nhà trường nhưng phải có sự vận dụng linh hoạt, đặc biệt sử dụng các thao tác kỹ thuật dạy học nhóm cần sử dụng triệt để hơn. Qua thực tế dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt, tôi rút ra kết luận sau: Dạy học phân hóa xuất phát từ nhu cầu đảm bảo thực hiện tốt mục đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong một lớp học luôn có sự chênh lệch về trình độ nhận thức của mỗi thành viên. Vì vậy, nhiệm vụ của người giáo viên là nghiên cứu một phương pháp dạy học thích hợp có thể tác động đến hầu hết các đối tượng học sinh, các đối tượng học sinh đều nắm được kiến thức nền tảng vững chắc, đảm bảo tính phổ cập và nâng cao. Để thực hiện điều đó thì người giáo viên cần bắt tay vào công việc thực tế bài giảng một cách cụ thể, tránh lý thuyết chung chung. Vì vậy, cần nghiên cứu kĩ đặc điểm của mỗi lớp học, khu vực, trình độ nhận thức chung của học sinh trong lớp để tiến hành giảng dạy. Có như vậy mới thực sự tạo ra những giờ học đạt hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học và các môn học khác. Việc áp dụng dạy học phân hoá trong dạy học các phân môn của môn Tiếng Việt như đã trình bày góp phần đổi mới phương pháp dạy học, tác động tốt đến mọi đối tượng học sinh trong lớp, học sinh yếu kém đã biết cùng tham gia xây dựng bài học, học sinh trung bình hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn, học sinh có năng lực học tập tốt môn Tiếng Việt được phát huy hết khả năng của mình, qua đó trí tuệ, vốn từ ngữ, tình yêu Tiếng Việt của các em được phát triển. Như vậy, chúng ta đã góp phần thực hiện tốt mục đích dạy học là đào tạo ra những học sinh đáp ứng được nhu cầu của xã hội phát triển. III.2.Kiến nghị: * Đối với giáo viên: Cần thấy rõ vai trò của người giáo viên trong việc dạy học nói chung và dạy môn tiếng Việt nói riêng. Mạnh dạn đầu tư thời gian, công sức để thiết kế tiết dạy theo hướng dạy học phân hóa. Chủ động, linh hoạt điều khiển quá trình phân hóa cho học sinh trong các tiết dạy. * Đối với chuyên môn: Cần tăng cường bồi dưỡng cho giáo viên các kĩ thuật dạy học phân hóa một cách có hệ thống và bài bản hơn nữa. * Đối với nhà trường: Tham mưu xây dựng thêm môi trường học tập ngoài thiên nhiên. Trồng thêm nhiều cây bóng mát sau mỗi lớp học. Một số khu vực dành riêng cho một số tiết học gần gũi với thiên nhiên để phục vụ cho các tiết dạy. Buôn Trấp, ngày 10 tháng 2 năm 2015 Người viết Dương Thị Kim Truyền * Nhận xét của Hội đồng chấm sáng kiến .................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO TT Tên tài liệu Tác giả 1 (Tài liệu hướng dẫn thực hiện Công văn số 5737/BGDĐT-GDTH ngày 21 tháng 8 năm 2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) BGD & ĐT 2 Tạp chí báo Giáo dục thời đại. Báo GD & TĐ 3 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Sổ tay PISA, Hà Nội. Sổ tay PISA, Hà Nội. 4 Tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 3 Nhà xuất bản GD Việt Nam 5 “Mức độ nghiên cứu công nghệ giáo dục theo quan điểm Thầy thiết kế - Trò thi công”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học giáo dục Việt Nam, Hải Phòng. Lê Văn Hồng (2011), 6 Những xu hướng dạy học không truyền thống, tài liệu bồi dưỡng giáo viên, Hà Nội. Nguyễn Bá Kim (2002),
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_phan_hoa_trong_mon_tieng_viet.doc