Sáng kiến kinh nghiệm Cải tiến phương pháp dạy Học vần ở Lớp 1 theo hướng tích cực

Phân môn Học Vần nằm trong hệ thống các phân môn của môn Tiếng Việt, nó đóng vai trò then chốt và nền tảng cho các phân môn khác và kể cả các môn học khác. Nhiệm vụ của phân môn Học Vần là cung cấp cho học sinh kiến thức về ngữ âm và chữ viết, từ vựng, ngữ pháp và văn học. Về kĩ năng, Học Vần rèn cho HS các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói.

Với đặc thù về kiến thức và kĩ năng như thế cho nên trong dạy học phân môn Học Vần, người dạy không những trang bị cho mình một kiến thức vững chắc về câu từ, về chữ viết mà còn cả về khả năng xử lí tình huống trong tiết dạy. Ngoài ra, phân môn học vần còn rèn cho học sinh có những phẩm chất như: tình cảm yêu thích Tiếng Việt, chữ Việt; bồi dưỡng lòng yêu thích cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng và thái độ tôn trọng người khác (thể hiện qua đọc và viết).

Đối với HS lớp 1 mọi hoạt động trong lớp đều mới mẻ đối với các em. Do vậy tính kiên trì và tỉ mỉ của GV sẽ giúp HS nâng cao được hiệu quả học tập.

Thực tế, việc dạy Học vần hiện nay đang được nhiều giáo viên quan tâm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên dạy chưa thật sự nghiêm túc theo yêu cầu và chức năng bộ môn, hình thức đơn điệu. Việc học sinh không được sử dụng bộ đồ dùng Tiếng Việt (bộ ghép chữ) còn là phổ biến hoặc có sử dụng nhưng không thường xuyên; còn giáo viên rất ngại sử dụng đồ dùng trực quan …Chính vì thế chất lượng của một bộ phận học sinh về đọc, viết chưa cao.

Năm học 2018 - 2019, tôi lại được tiếp tục được phân công giảng dạy ở khối lớp 1. Là một giáo viên khá lâu năm, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để học sinh có được kĩ năng đọc, viết tốt. Học sinh lớp 1 còn nhỏ, tâm sinh lí chưa ổn định, hiếu động, sự tập trung còn kém, mau nhớ nhưng cũng mau quên. Không ít học sinh khi vào lớp 1 còn phát âm chưa chuẩn, nói ngọng, nhút nhát, thiếu tự tin. Bằng tình cảm yêu trẻ, yêu nghề tôi đã mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy Học vần, bám sát chuẩn kiến thức và kĩ năng để giờ học trở nên hiệu quả hơn, nhẹ nhàng hơn. Phương pháp dạy học chỉ đạt được hiệu quả cao khi được sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học nhất định, trong những hình thức dạy học nhất định với những phương pháp hết sức phong phú và đa dạng. Vì thế đối với lớp 1, phương pháp dạy học lại càng có một vị trí quan trọng. Người giáo viên phải phát huy hết tài năng của mình, biết khơi gợi tiềm năng ở mỗi học sinh, phát huy được tính tích cực, chủ động ở các em để mỗi giờ học thật sự bổ ích và hấp dẫn.

docx 14 trang Thu Nga 24/09/2025 360
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Cải tiến phương pháp dạy Học vần ở Lớp 1 theo hướng tích cực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Cải tiến phương pháp dạy Học vần ở Lớp 1 theo hướng tích cực

Sáng kiến kinh nghiệm Cải tiến phương pháp dạy Học vần ở Lớp 1 theo hướng tích cực
ất quan trọng vì nó giúp học sinh nắm chắc cấu tạo của tiếng và viết đúng chữ  ghi tiếng  theo thứ tự các âm (không viết ngược. VD: nơ -> ơn). Sau khi học sinh ghép được tiếng “nơ”, tôi mới ghép trên bảng lớp. Khi dạy đến âm m, tôi nâng cao hơn: cho học sinh lấy âm “m” và ghép nhanh tiếng “me”, lúc này học sinh phải tự ghép tiếng “me”. Tôi hỏi: “Các em vừa ghép được tiếng gì?” (Học sinh: tiếng “me”).
           VD: Dạy bài 47: en - ên
           Phần củng cố tôi cho học sinh chơi trò chơi thi ghép tiếng có vần en và ên theo tổ. Trong thời gian một phút, tổ nào ghép được nhiều tiếng có vần en và ên, tổ đó sẽ thắng (lưu ý các tiếng không có trong bài học).
          Khi học sinh ghép xong, tôi cho các em đó đọc lên, nhóm khác bổ sung. Việc làm này đã mở rộng vốn từ cho các em.
          Từ việc sử dụng bộ ghép chữ Tiếng Việt của giáo viên và học sinh, tôi đã phát huy một cách tích cực việc học tập của các em. Ở mỗi tiết dạy, tôi đã đều tạo điều kiện cho các em được hoạt động độc lập, tự tìm ra kiến thức mới. Qua việc sử dụng bộ đồ dùng ghép chữ, các em tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, hiệu quả: học sinh nắm chắc chắn vị trí âm, vần, tiếng và dấu thanh.
     2.2. Sử dụng vật mẫu, mô hình, đồ dùng trực quan            
     Khi dạy sang từ mới, từ ứng dụng, tôi thường xuyên sử dụng vật mẫu mô hình giúp các em hiểu nghĩa của từ, câu, tạo hứng thú trong học tập. Bởi vì học sinh lớp 1 rất thích ngắm nhìn những vật thật, những vật có thể cử động được hoặc phát ra âm thanh (VD như cá đang bơi, thổi còi), tư duy của các em là tư duy động, cái gì cũng thích được quan sát trực tiếp, được cảm nhận bằng giác quan. Vì thế mà không có tiết Học vần nào mà tôi không sử dụng tranh ảnh mẫu vật, việc làm này là rất cần thiết. Ngoài việc chuẩn bị của giáo viên tôi còn giao nhiệm vụ cho các em được tìm tòi, khám phá để nâng cao tính tự giác trong học tập.
          VD: Dạy bài 29: ia
           Tôi yêu cầu học sinh mang đến lớp: lá tía tô, lá mía để các em quan sát nhận xét đặc điểm và tác dụng của các loại lá cây này. Để giúp các em hiểu rõ nghĩa của các từ ngữ, tôi vẫn thường sưu tầm vật thật, các đồ vật này rất gần gũi và quen thuộc với các em trong cuộc sống hàng ngày. (VD: lá đa, bi ve, quả ổi, quả lê).
          Trong thực tế giảng dạy, nhiều từ mới và từ ứng dụng là những động từ, cụm động từ có nghĩa khó hiểu với học sinh lớp 1 (VD: trỉa đỗ, huơ tay, cử tạ, khuỳnh tay),  không thể dùng vật thật hay tranh ảnh để giải nghĩa. Vì thế khi giải nghĩa các từ này tôi thường làm các động tác, cử chỉ để giúp học sinh hiểu từ nhanh hơn.
          VD: Dạy bài 31: Ôn tập
          Khi giảng từ ứng dụng: “trỉa đỗ” tôi đã chuẩn bị 1 chậu đất, đỗ và một chiếc dầm. Vì từ này giải nghĩa bằng lời, học sinh rất khó hiểu nên tôi cho học sinh quan sát động tác tôi làm: “Dùng dầm bới đất, bỏ đỗ vào, lấp đất lên”. Sau đó hỏi học sinh: “Cô vừa làm động tác gì?” (HS: cô bới 1 lỗ nhỏ, cho đỗ vào, rồi lấp đất lên). Sau đó tôi mới giảng động tác vừa làm chính là: “trỉa đỗ” tức là gieo hạt đỗ xuống đất để mọc thành cây con.
          Sau khi học sinh viết trên bảng con, tôi vẫn sử dụng  máy chiếu đa năng để chữa bài, vì bảng con được phóng to, các em dễ quan sát, dễ phát hiện lỗi sai. Khi học sinh viết sai, tôi dùng phấn mầu chữa đè lên chữ học sinh viết sai để học sinh rút kinh nghiệm.
          Ngoài việc sử dụng máy chiếu vật thể, tôi còn cắt hoặc thiết kế các chữ viết theo đúng mẫu bảng, giúp cho học sinh cảm thấy gần gũi, giống như trình bày bảng của mình
Học sinh thực hành viết bảng sau khi được quan sát chữ mẫu trên powerpoint
          Ngoài ra việc thiết kế những phần mềm hướng dẫn học sinh nhìn rõ hơn chữ ghi vần mẫu ở trên bảng cũng giúp học sinh quan sát kĩ hơn các nét, nhất là đối với các em ngồi ở những bàn cuối lớp rất khó khăn trong việc quan sát bảng trước khi viết vở.
          VD: Bài 15: t - th
          Đặc biệt các con chữ này có thể chuyển động theo từng bước để có thể khớp với lời hướng dẫn của giáo viên, chứ không phải là con chữ tĩnh. Sau đó giáo viên viết mẫu ở bảng. Điều đó giúp học sinh hình tượng rõ, khắc họa rõ hơn về các con chữ.
           Tóm lại: Việc sử dụng hiệu quả đồ dụng đồ dùng dạy học là việc vô cùng cần thiết nên đồ dùng của giáo viên và học sinh phải được chuẩn bị chu đáo. Đồ dùng chính là công cụ lao động của giáo viên và học sinh, chúng ta sử dụng phù hợp với đặc trưng bộ môn thì đồ dùng đóng vai trò cung cấp nguồn thông tin học tập, tạo ra nhiều khả năng để giáo viên trình bày nội dung bài học một cách sâu sắc, thuận lợi; hình thành được ở học sinh những phương pháp học tập tích cực, chủ động, tạo hứng thú cho học sinh khi học.
     3. Kinh nghiệm thứ ba: Vận dụng linh hoạt các hình thức học tập
     Bên cạnh các hình thức học tập nói chung, tôi vận dụng linh hoạt trò chơi học tập. Các hình thức học tập này là những hoạt động được tiến hành thông qua các trò chơi (Chơi là phương tiện, học là mục đích). Thực chất trò chơi ở đây là trò chơi có mục đích. Bởi vì, học sinh khi chơi thường xuất hiện những tình huống trong đó bộc lộ sai sót về kiến thức (đọc âm sai, sai tiếng; ghép tiếng sai chính tả). Đó là những tình huống có vấn đề, là dịp các em trao đổi, tranh luận tìm ra cái đúng, cái sai. Qua đó ôn luyện củng cố kiến thức một cách tự giác, chủ động. Vì vậy, trong các giờ Học vần, tôi thường tổ chức cho học sinh chơi nhiều trò chơi khác nhau. Các trò chơi tôi thường tổ chức là: trò chơi đố chữ, thi tìm âm vần vừa học, thi ghép vần, đường lên đỉnh vinh quang hái hoa dân chủ, quay ô chữ kì diệu (đọc tiếng, từ, câu đã học, chơi thi viết tiếp sức các tiếng, từ mang vần vừa học)
          VD 2: Dạy bài 67: ăt - ât
          Phần củng cố tiết 1, tôi cho học sinh chơi trò chơi “nhanh tay, nhanh mắt”. Luật chơi như sau:      Hãy tìm và ghép các tiếng có vần “ăt” hoặc “ât”. Trong thời gian 1 phút tổ nào ghép được nhiều tiếng tổ đó giành phần thưởng.
          Lưu ý:
+ Không ghép những tiếng có trong bài.
+ Khi cho học sinh báo cáo kết quả, các em cầm bảng gài và tự đọc tiếng mình vừa ghép được. Vì thế kiến thức được củng cố và khắc sâu hơn. Bên cạnh những trò chơi củng cố cách đọc, mở rộng vốn từ ngữ, tôi còn tổ chức cho các em thi viết chữ đẹp trên bảng con, bảng lớp.
          Ngoài ra tôi vận dụng thêm một số trò chơi sử dụng trong các bài Ôn tập nhằm giúp các con hứng thú hơn trong việc ôn tập lại các vần đã học.
          VD: Trò chơi Cặp từ cùng vần:
Mục đích: Giúp HS: 
Luyện đọc và viết những từ ứng dụng chứa các vần đã học.
Rèn luyện kĩ năng quan sát.
Phát triển kĩ năng phân tích, suy luận.
Chuẩn bị: GV chuẩn bị cho mỗi HS một phiếu trò chơi.
VD: Bài 59: Ôn tập phiếu có nội dung như sau:
Thời điểm dụng: Trước thời gian luyện đọc (GV lấy đáp làm ngữ liệu luyện đọc), trong thời gian củng cuối giờ hoặc kiểm tra bài cũ.
GV có thể tổ chức chơi cá nhân hoặc chơi theo nhóm (theo kiểu tiếpsức)
 VD: Trò chơi Tàu chở hàng
Mục đích: Giúp HS: 
Luyện đọc, viết những từ ứng dụng chứa các vần đang học.
Rèn luyện kĩ năng quan sát.
Phát triển kĩ năng phân tích, suy luận.
Chuẩn bị: 
GV chuẩn bị cho mỗi HS một phiếu trò chơi.
VD: Bài 59: Phiếu ôn tập có nội dung:
Cách tiếnhành:
      GV hướng dẫn chơi: Hai toa tàu trong đoàn được nối với nhau bởi hai thanh nối. Các con hãy tạo ra hai thanh nối đó bằng cách tìm hai chữ cái thích hợp sao cho đó vừa là hai chữ cuối của từ đắng trước vừa là hai chữ đầu của từ phía sau. Sau đó, các con hãy ghi những từ vừa tạo được vào bảng. Ai tạo được nhiều thanh nối hơn thì người đó được tuyên dương, khen thưởng
      Đáp án:
1
xanh
nhường
2
trăng
ngừng
3
hàng
ngỗng
4
xẻng
ngóng
5
chuông
ngang
6
vịnh
nhung
7
tầng
ngành
8
kênh
nhộng
9
bóng
ngượng
     Lưu ý:
     Thời điểm sử dụng: Trước thời gian luyện đọc (GV lấy đáp án làm ngữ liệu luyện đọc), trong thời gian củng cố cuối giờ hoặc kiểm tra bài cũ.
GV có thể tổ chức HS chơi theo nhóm để HS có thể bổ sung cho nhau những từ còn thiếu, chơi theo kiểu tiếp sức.
          VD: Dạy bài 47: en –ên
          Ở cuối tiết 2, tôi tổ chức cho cả lớp thi viết nhanh và đẹp trên bảng con từ “áo len” với thời gian là 1 phút. Ai viết nhanh, viết đúng, đẹp sẽ được thưởng. Muốn viết đúng và đẹp từ này, các em phải nhớ lại cách viết vần "en" ở tiết 1 để viết đúng chữ “len” trong từ “áo len”.
          Qua việc thi viết, tôi đã khắc sâu quy trình viết cho học sinh, rèn ý thức viết đúng, đẹp, nhanh. Động viên kịp thời những tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất và uốn nắn những sai sót về chữ viết cho học sinh. Như vậy, trong mỗi tiết học vần tôi thường xuyên tăng cường cho học sinh thực hành theo hướng: “vừa học vừa chơi”. Qua trò chơi mà rèn luyện trí thông minh, sáng tạo, đồng thời ôn luyện, củng cố, khắc sâu kiến thức đã học một cách chủ động, tự giác. Qua trò chơi, tôi đã góp phần làm giàu thêm vốn kiến thức cho học sinh.
     4. Kinh nghiệm thứ tư: Phát huy tính tích cực, chủ động và vốn hiểu biết của học sinh.
          Khi trẻ bước vào lớp 1, trẻ đã có một vốn sống, vốn hiểu biết khá phong phú. Tuy nhiên có giáo viên cứ hay nói hộ, làm hộ học sinh vì nghĩ rằng các em chưa thể hiểu biết được. Việc trẻ tự nói ra những suy nghĩ, ý kiến của mình sẽ giúp các em hiểu rõ vấn đề hơn, sẽ thấy mạnh dạn, tự tin hơn.
          VD: Dạy bài 30: ua – ưa.
          Ở bước giới thiệu vần mới, thông thường giáo viên giới thiệu ngay: “Đây là vần ua”. Rồi sau đó cho học sinh nhận diện và ghép vần ua. Tôi lại làm như sau:
+ Cho HS lấy các con chữ: u, a rồi lần lượt ghép trên bảng gài. Sau khi ghép xong tôi hỏi: “Con vừa ghép được vần gì? Đố bạn nào biết?” (HS thi đua nói ra vần mới “ua”). Sau đó tôi khẳng định lại rồi mới gắn vần “ua” lên bảng và cho học sinh nhận diện, phát âm. Nếu không có học sinh nào nói được vần mới đó, tôi mới giúp đỡ. Bằng việc tự khám phá ra kiến thức mới nên HS rất hứng thú, sôi nổi, kiến thức đó lại được khắc sâu hơn.
 Đến khi giảng từ “cua bể”, tôi hỏi: “Cua bể sống ở đâu?” (HS: sống ở biển).
+ Nó có gì khác với cua đồng? (HS: Nó to hơn cua đồng nhiều)
+ Ăn cua có lợi gì cho sực khỏe? (HS: Ăn cua có nhiều chất bổ, giúp cơ thể khỏe mạnh).
          Với những câu hỏi gần gũi như vây, các em sẽ có hiểu biết về loài cua một cách cụ thể, rõ ràng hơn.
          Ngoài việc khai thác vốn hiểu biết cho học sinh, tôi thường nêu tư duy so sánh để củng cố và khắc sâu kiến thức, giúp các em tiếp thu kiến thức mới dễ hơn.
          Việc phát huy tính tích cực, chủ động và huy động vốn hiểu biết của học sinh được tôi áp dụng thường xuyên trong giảng dạy. Ở mỗi nội dung bài dạy tôi đều lấy học sinh làm trung tâm để giảng dạy với mục đích học sinh tự tìm ra kiến thức của bài.
          VD: Dạy bài 13: n - m
          Khi hướng dẫn HS luyện đọc tiếng và từ ứng dụng, trên cơ sở học sinh đã nhận diện được âm mới m, n và các âm, tiếng đã học. Sau khi cho học sinh nhận diện các tiếng có âm đầu n - m, tôi đã cho các con luyện đọc theo hình thức nhóm đôi. HS sẽ đọc, phân tích, đánh vần cho nhau nghe. Sau đó có thể hỏi và kiểm tra lại bạn xem bạn đã nắm được chưa.
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ
     * Học sinh:
     Sau một năm giảng dạy, bằng việc áp dụng các kinh nghiệm tích cực trên, học sinh lớp tôi đã đạt được kết quả sau:
+ Kĩ năng đọc: Các em nhớ, nắm chắc tên gọi các âm, vần, có kĩ năng đọc đúng tiếng từ, câu, đoạn ứng dụng trong và ngoài sách giáo khoa. Bên cạnh đó việc đọc hiểu, đọc diễn cảm cũng được học sinh lớp tôi thể hiện rất tốt, nhiều em đọc lưu loát, biết ngắt nghỉ khi  gặp dấu chấm câu, biết thể hiện giọng đọc phù hợp với nội dung của bài.
 + Kĩ năng viết: Học sinh viết đúng mẫu các chữ ghi âm, vần, tiếng, từ; đúng cỡ chữ, đảm bảo khoảng cách hợp lí, biết đặt đúng vị trí các dấu thanh, trình bày sạch đẹp. Hàng tháng, lớp tôi đều được công nhận là lớp Vở sạch chữ đẹp với tỉ lệ loại A trên 90%
 + Kết quả kiểm tra định kì môn Tiếng Việt của học sinh lớp tôi trong năm học 2017 -2018 và kết quả học kì I năm học 2018 - 2019:
Năm học
Sĩ số
Số học sinh đọc Hoàn thành  (%)
Số học sinh đọc chưa hoàn thành (%)
Ghi chú 
2017 - 2018
52
52 em  = 100 %
0 em
Đánh giá theo thông tư 22/2018
Học kì I
2018 - 2019
54
54 em =100%
0 em
Đánh giá theo thông tư 22/2018
 
     * Giáo viên:
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn học vần mà nội dung trọng tâm là cải tiến phương pháp dạy học vần cho học sinh lớp 1. Tôi thấy rằng, đây là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh, vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học sinh lớp 1.
Để giờ dạy học vần đạt kết quả cao giáo viên cần áp dụng linh hoạt các biện pháp. Tuỳ từng bài, giáo viên chọn các biện pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất trong giờ học vần. Muốn vậy người giáo viên phải làm được những công việc sau:
- Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán được tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để giải quyết tình huống đó.
- Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh.
- Để đạt được các yêu cầu trên, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, đức tính chịu khó kiên trì, với đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của mỗi giáo viên.
      Trên đây là một số kinh nghiệm cải tiến phương pháp dạy học vần cho học sinh lớp 1. Với khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều và thời gian thực nghiệm đang tiến hành thực hiện, chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp giúp cho kinh nghiệm của tôi thêm hoàn thiện hơn.
C. KẾT LUẬN
     Để đạt được kết quả trên, tôi luôn xác định rõ mục tiêu tiết học, bám sát chuẩn kiến thức và kĩ năng, điều chỉnh những nội dung, kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp mình. Rèn luyện cho học sinh có thói quen thực hiện tốt các yêu cầu của bộ môn và những quy định của giáo viên.Cần thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học và sử dụng có hiệu quả ở tất cả các tiết Học vần. Chú ý phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trên cơ sở khai thác những kiến thức, vốn hiểu biết  đã có ở các em. Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các môn học khác trong việc rèn đọc, rèn viết cho học sinh. Thường xuyên động viên, khen ngợi kịp thời khi các em có những biểu hiện tiến bộ. Ở mỗi giai đoạn, cần có sự kết  hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh nhằm hoàn  thiện những kĩ năng đọc, viết cho các em.
      Bên cạnh đó, người giáo viên cần có lòng yêu nghề, mến trẻ, có ý thức học tập, nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, luôn chú ý tới đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh để  giờ học trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_cai_tien_phuong_phap_day_hoc_van_o_lop.docx