Sáng kiến kinh nghiệm Các biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giai đoạn học vần cho học sinh Lớp 1
Hoạt động đọc giúp con người thu nhận được lượng thông tin nhiều nhất, nhanh nhất, dễ dàng, thông dụng và tiện lợi nhất để không ngừng bổ sung và nâng cao vốn hiểu biết, vốn sống của mình. Trong nhà trường, thông qua hoạt động đọc giúp học sinh được mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống con người, về văn hóa, văn minh, phong tục, tập quán của dân tộc trên đất nước mình và trên thế giới. Đọc các tác phẩm văn học, học sinh được bồi dưỡng về năng lực thẩm mĩ, trau dồi kỹ năng sử dụng ngôn từ, mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống. Vì vậy việc đọc có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển rất lớn. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người mà nhất là học sinh lớp 1. Đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thể thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
Nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác, ở lớp 1 các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn, các em sẽ ham học, tích cực trong các hoạt động học tập.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Các biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giai đoạn học vần cho học sinh Lớp 1

gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. Ví dụ: Các nét chữ cơ bản và tên gọi. Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nét thẳng Nét ngang Nét xiên phải Nét xiên trái Nét móc xuôi Nét móc ngược Nét móc hai đầu Nét cong hở phải Nét cong hở trái Nét cong kín Nét khuyết trên Nét khuyết dưới Nét thắt * Phần học âm : Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản 1 cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau tạo thành từ và thành câu. Giai đoạn này tôi dạy cho trẻ phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng 1 tên gọi song có nhiều kiểu viết khác nhau hay gặp trong sách báo như : chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là : chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo trẻ dễ hiểu và không bị lúng túng. Ví dụ: Âm: a - a, g - g. + Âm a gồm hai nét: nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải; a cũng gồm nét tròn và nét móc xuôi. + Âm g gồm: nét tròn và nét móc ngược; g gồm nét tròn nối với nét cong hở phải. Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d; b; p; q. Ví dụ: + Âm d gồm hai nét: nét tròn nằm ở bên trái và nét thẳng nằm bên phải. đọc là: “dờ”. + Âm b gồm hai nét: nét tròn nằm ở bên phải và nét thẳng nằm ở bên trái. đọc là: “bờ”. Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại với nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành 1 nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. Ví dụ: + Các âm ghép: ch - c nh - n th - t kh - k gh - g ph - p ngh - ng + Còn lại các âm: gi, tr , q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. + Phân từng cặp: ch-tr, ng-ngh, c-k, g-gh để phát âm chính xác và viết chính tả phân biệt.... Những bài ôn ở trong sách được lặp đi lặp lại bài nào cũng như bài nào làm cho học sinh tiếp thu 1 cách nhàm chán nên tôi đã thay vào phần chơi trong tiết hai của bài ôn là những bài mà tôi tự nghĩ và viết ra phiếu. Có thể phiếu chỉ là 1 từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có thể là 1 câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính giáo dục. Ví dụ: Cô khen Nam chăm học. Đến khi học sinh viết tiếng, từ vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng, từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghĩa của các từ mà trẻ tìm đựơc của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó phong trào tìm tiếng, từ mới học sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Những đoạn văn hay bài văn mang tính chất: - Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng. Ví dụ: o a c d đ / \ ? ~ . giỏ đỏ có cà. cò đã có cá. - Cung cấp vốn từ, câu phong phú. Ví dụ: u ư y n m l b Dì Nụ là y tá ở tổ y tế. Bà Tư bế bé Lệ đi từ từ. Bố Tú đi mô tô đỏ. Mẹ Na mổ cá mè. ng ngh nh th. Mẹ Nga là ca sĩ. Ba Tứ đi xe mô tô về nhà cô Thu . Bé Nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ. - Hợp thành đoạn hay bài văn có nội dung mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi đua như kỷ niệm các ngày lễ: 20/10, 20/11, 22/12, 8/3,... để xây dựng bài cho học sinh đọc. * Phần học vần: Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn văn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc các chữ hoa sau dấu chấm, các danh từ riêng, tên gọi riêng. - Bài: Ôn các vần có âm m cuối. am, ăm, âm, om, ôm, ơm, em, êm, im, um. . Bà Tám đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thơm đến thăm bà và đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn bố mẹ Thơm. Bà còn khen em lớn quá. . Cô Thơm dẫn Trâm đi xem thú ở Thủ Lệ. Trâm nhìn rõ con nhím nằm thu lu bên lùm cây tim tím. * Vì thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã chia chất lượng của lớp ra làm 4 trình độ: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu. Và phân công: - Giỏi kèm yếu. - Khá kiểm tra trung bình. Hàng ngày tôi giao phiếu bài cho học sinh giỏi. Những ngày đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh giỏi, biết được các em học giỏi đã đọc trơn tru, lưu loát rồi thì khi nhận được phiếu là trẻ kiểm tra bạn 1 cách chính xác. Từ những điều học sinh giỏi tiếp thu được các em sẽ in sâu và truyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, học sinh trung bình và yếu dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy: “Học thầy không tày học bạn”. Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ, song trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh tương đối đồng đều. Song không ỷ lại cho học sinh giỏi mà tôi vẫn thường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh trung bình và yếu nhằm củng cố cho các em về kiến thức 1 cách vững vàng hơn. Biện pháp 3: Rèn cách phát âm đúng, chính xác Để rèn được cách phát âm đúng, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết cách phát âm và cho học sinh quan sát cách phát âm qua khẩu hình miệng. Đọc đúng phụ âm đầu: giúp học sinh có ý thức phân biệt các phụ âm đầu, dễ đọc sai theo đặc điểm cách phát âm địa phương. Ví dụ: l/n, ch/tr, s/x: học sinh không được đọc “hoa nan”, “cây che”, “ngôi xao”, mà phải đọc “hoa lan”, “cây tre”, “ngôi sao”, Khi dạy học sinh học âm l , giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miệng để các em “bắt chước” phát âm mới đúng được . Hoặc khi các em đọc chưa đúng thì giáo viên phải vừa hướng dẫn tỉ mĩ cách đọc từ việc đặt lưỡi, mở khuôn miệng cho đến việc giáo viên thực hiện các bước đó như thế nào để các em quan sát, làm theo. Dĩ nhiên, những gì giáo viên nói phải gần gũi, dễ hiểu nhất với các em chứ không phải những từ ngữ mang tính chuyên môn. Đọc đúng các vần: Ví dụ: Không đọc “riệu”, “cấp cíu”, “con thuền” mà phải đọc “rượu”, “cấp cứu”, “con thuyền”, Đọc đúng các dấu thanh do địa phương hay do ngọng thành thói quen: Ví dụ: Không đọc “mợ cựa”, “bớ ngớ” mà phải đọc là “mở cửa”, “bỡ ngỡ”, Biện pháp 4: Phân loại học sinh và đưa ra biện pháp giúp đỡ Cái gì cũng vậy, để tìm được giải pháp thì phải biết lí do từ đầu, nguyên nhân là gì? Có các nguyên nhân chính sau dẫn đến học sinh lớp 1 học đọc – viết kém: Do hoàn cảnh gia đình Với học sinh lớp 1, đa số các gia đình đều rất quan tâm đến các con. Bên cạnh đó, vẫn còn có một số trường hợp học sinh không ở cùng bố mẹ hoặc bố mẹ không có thời gian kèm cặp, giúp đỡ thì đây cũng có thể là nguyên nhân ảnh hưởng tới tâm lí của các em (Khánh Vy, Thanh Vân, Thu Ngân). Trong những trường hợp này, giáo viên cần tìm hiểu để trao đổi với gia đình cùng hỗ trợ kịp thời. Giáo viên cần trao đổi rõ các biện pháp, việc làm cần thiết để giúp đỡ học sinh. Với những trường hợp này, giáo viên vừa là thầy cô, vừa là mẹ; yêu quý, động viên, khích lệ giúp các em cảm nhận được tình yêu thương khi đến lớp. Từ đó, các con sẽ yêu quý, tin tưởng người dẫn dắt, dạy bảo mình. Do mất kiến thức căn bản Trong trường hợp này, người giáo viên cần phải trao đổi với phụ huynh về thời gian cũng như biện pháp hỗ trợ. Trong năm học 2021-2022 vừa qua, vì tình hình dịch bệnh kéo dài hầu hết các Nhà trường đều tổ chức học qua hình thức trực tuyến. Chính vì điều này nên đã ảnh hưởng không ít đến vấn đề nhận biết chữ cái và các nét cơ bản của các con ở trường Mầm non. Với lớp 1, việc học sinh mất kiến thức căn bản cũng hạn chế vì lượng kiến thức và thời gian học tập chưa nhiều, nếu phải bù bài cũng không khó khăn lắm. Chưa nhận thức được nhiệm vụ, chưa chăm học Hiện nay, vẫn còn một số thành phần học sinh còn lười học, chưa nhận thức được việc học cần thiết như thế nào, đặc biệt là học đọc. Những học sinh này thường không có tinh thần học tập, chán nản, đến trường thì không tập trung, về nhà lại không chịu học và thường không có mục đích phấn đấu. Vậy việc giáo viên cần thường xuyên tạo động cơ học tập cho học sinh qua các câu chuyện như: Nguyễn Ngọc Ký (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1947, quê ở xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định) là nhà giáo tại Việt Nam. Từ năm lên 4 tuổi, ông bị bệnh và bị bại liệt cả 2 tay, nhưng ông đã cố gắng vượt qua số phận của mình và trở thành nhà giáo ưu tú, lập kỷ lục Việt Nam "Người thầy đầu tiên của Việt Nam dùng chân để viết". Biện pháp 5: Củng cố âm, vần đã học bằng trò chơi Trong giờ Tiếng Việt, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia. Ví dụ: Trò chơi “Ai nhanh – Ai đúng”, “Ai nhanh hơn”, “Ô cửa bí mật” Giáo viên chuẩn bị một số từ vào các bảng con và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học sinh trung bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng. Hay trò chơi “Chỉ nhanh – Chỉ đúng” Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng một em (là học sinh khá, giỏi) đọc cho hai học sinh yếu chỉ vào âm, vần, tiếng, từ do bạn đọc. Trò chơi này học sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi. Biện pháp 6: Kết hợp cùng gia đình học sinh Việc học đọc của học sinh lớp 1 mới chỉ dừng lại ở những bước đầu. Bởi vậy, việc luyện đọc cần diễn ra thường xuyên, liên tục mới đem lại hiệu quả tốt. Ngay từ đầu năm học, tôi đã trao đổi với phụ huynh tình hình của các con, cho phụ huynh nắm rõ được những yêu cầu cần đạt đối với việc đọc, những ưu điểm và nhược điểm cần khắc phục của mỗi học sinh để phụ huynh có thể nắm được. Trên cơ sở đó, giáo viên đưa ra 1 số biện pháp phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh để giúp các em có kỹ năng tốt trong việc đọc như: - Đôn đốc, kiểm tra các con việc luyện đọc ở nhà. - Khuyến khích các con đọc thêm sách, báo, truyện để rèn luyện thêm khả năng đọc. - Hướng dẫn các con đọc đúng văn bản. IV. Kết quả sau khi thực hiện đề tài Hết phần học âm (chữ) 100% học sinh lớp tôi dạy đều nắm vững chữ, âm và đọc được tiếng, từ một cách chắc chắn. Đến phần vần: Học sinh nắm vần tốt. Xây dựng tiếng, từ mới rất phong phú và dần dần đọc được các đoạn văn hay bài văn dài. So sánh với đầu năm học: TSHS 20 Đọc tốt Đọc hơi chậm Đọc sai dấu Đọc sai phụ âm Đọc ngọng TS % TS % TS % TS % TS % Khảo sát đầu năm 3 15% 5 25% 4 20% 5 25% 3 15% Kết quả sau khi áp dụng đề tài: TSHS 20 Đọc tốt Đọc hơi chậm Đọc sai dấu Đọc sai phụ âm Đọc ngọng TS % TS % TS % TS % TS % Khảo sát đầu năm 15 75% 3 15% 0 0% 1 5% 1 5% So sánh với số học sinh của năm học 2021-2022 tôi nhận thấy sau khi áp dụng đề tài này số học sinh đọc tốt tăng lên rõ rệt. Năm học 2021-2022 hết tháng 3, lớp 1A5 có 60% học sinh đọc tốt. Tính đến cuối tháng 3 năm 2023, lớp tôi đã có 75% số học sinh đọc tốt. C.KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. Những kết luận đánh giá cơ bản về đề tài Qua việc thực hiện “Các biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giai đoạn học vần cho học sinh lớp 1 ”, tôi thấy đã có những chuyển biến rõ rệt. Đó là chất lượng đọc đạt kết quả cao, học sinh không những đọc thông thạo mà còn viết đúng, viết đẹp, đem lại niềm vui cho thầy cô giáo, cho học sinh, cho cả phụ huynh. Các em đọc không tốt, đọc yếu dần dần tiến bộ và số lượng khá giỏi tăng rõ rệt, các em đọc tốt hơn, mạch lạc hơn trước và có thể đảm bảo được chất lượng đọc khi lên các lớp tiếp theo. II. Bài học kinh nghiệm Bản thân tôi cũng rút ra được một bài học kinh nghiệm cho bản thân cũng như để các thầy cô đồng nghiệp tham khảo, góp ý như sau: - Tìm hiểu nguyên nhân mà học sinh đọc yếu, phải biết được các em bị hỏng kiến thức nào. - Thực hiện chuyên đề trong tổ chuyên môn, trao đổi cùng đồng nghiệp trong tổ các phương pháp thực hiện để cùng nhau tiến bộ. -Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh theo từng đối tượng thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. - Tổ chức thực hành, luyện tập thường xuyên dưới nhiều hình thức. Phân chia đối tượng học sinh, có kế hoạch bồi dưỡng học sinh trung bình, học sinh yếu, kịp thời. - Cần chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo tránh dạy chay và thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học, giới thiệu tranh ảnh, trò chơi để học sinh hào hứng học tập. - Xây dựng nề nếp học tập tốt trong mọi khía cạnh, tạo không khí thi đua giữa cá tổ, các nhóm ,các học sinh theo từng đối tượng. - Giáo viên - học sinh có mối quan hệ gần gũi nhưng nghiêm túc, tạo tâm lý thoải mái, cử chỉ thân thiện trong quá trình dạy học. - Sử dụng phương pháp động viên, khen ngợi hợp lí, khi các em có một điểm đúng hay tiến bộ dù là rất nhỏ thì giáo viên cũng cần khen ngợi để tăng sự cố gắng vươn lên học giỏi của các em. - Cần phối hợp với cha mẹ học sinh để giúp các em tiến bộ. Ở trường có thầy cô về nhà có bố mẹ kèm cặp giúp đỡ học sinh tự tin hăng say học tập. Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng ngày. Người giáo viên đối với học sinh vừa là người thầy truyền thụ kiến thức vừa là người cha, người mẹ động viên an ủi. Với tình thương yêu gần gũi các em sẽ tiến bộ hơn rất nhiều. Từ đó không những đọc đúng từ ngữ đúng tốc độ mà còn biết đọc hay, ngắt nghỉ đúng chỗ, có em đọc văn đúng giọng nhân vật tạo cho các em tự tin để tìm hiểu các môn học khác. III. Các đề xuất và khuyến nghị Để sáng kiến được vận dụng rộng rãi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục huyện nhà, tôi xin đưa ra một số ý kiến sau: - Đối với các nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh, ảnh minh họa cho môn Tiếng Việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn. Mỗi phòng học cần trang bị máy chiếu cố định để giáo viên dạy thuận lợi, vì mỗi lần dạy phải lắp ráp mất nhiều thời gian. - Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học, và yêu thích môn học. - Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập . Có ý thức tự giác trong học tập. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ bản thân tôi đúc rút được qua quá trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có những thiếu sót.Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn bè đồng nghiệp, Ban giám hiệu Nhà trường và các cấp quản lý để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn và có hiệu quả hơn trong công tác giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Ba Vì, ngày 20 tháng 3 năm 2023 Tác giả sáng kiến Phùng Thị Hạnh
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_cac_bien_phap_ren_ky_nang_doc_trong_gi.docx