Sáng kiến kinh nghiệm Các biện pháp nâng cao chất lượng rèn đọc cho học sinh Lớp 4
Luyện đọc tiếng, từ:
Khi gọi học sinh đọc, tôi thường yêu cầu cả lớp lắng nghe, nhận xét bạn đọc, để từ đó sửa và khắc phục cho học sinh một số lỗi như:
- Đọc thừa hay thiếu từ.
- Phát âm sai tiếng có phụ âm đầu “ l” hay “ n”, thanh ‘ hỏi’ hay ‘ngã’.
Ví dụ : Khi dạy bài : “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” – Tiếng Việt 4- Tập 1.
Học sinh phát âm sai từ “nặc nô”, “lủng củng”, ...thành “lặc lô”, “nủng củng”, ... Đây là lỗi phát âm sai âm đầu “l/n” do cách phát âm địa phương mà một số em mắc phải. Tôi gọi 1 em đọc chuẩn hoặc giáo viên đọc lại các từ đó và yêu cầu học sinh đọc sai phát âm theo.
- Phát âm sai các âm chính.
Ví dụ: Bài: “Tre Việt Nam” (Tiếng Việt 4 - Tập 1)
Học sinh không được đọc là “bạc mầu” mà phải đọc là “bạc màu”.
- Phát âm sai các thanh: hỏi- nặng, ngã- sắc.
Ví dụ: Bài: “Mẹ ốm” (Tiếng Việt 4- Tập 1)
Học sinh không đọc “diến kịch” mà phải đọc là “diễn kịch”, không đọc “ngụ say” mà phải đọc là “ngủ say”
Với các bài tập đọc có nhiều từ phiên âm tiếng nước ngoài hoặc tiếng dân tộc như: An-đrây-ca, Đi-ô-ni-dốt, Xi-ôn-cốp-xki, ...trước khi luyện đọc, tôi hướng dẫn các em đọc các từ đó bằng cách ghi lên bảng các từ đó, trước tiên cho học sinh đọc, nếu sai giáo viên sửa (nếu cần thiết giáo viên có thể đọc mẫu- hướng dẫn cách phát âm).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Các biện pháp nâng cao chất lượng rèn đọc cho học sinh Lớp 4

chuyên đề,... tạo mọi điều kiện hỗ trợ giúp giáo viên giảng dạy tốt. + Bản thân giáo viên luôn phấn đấu, có lòng yêu nghề mến trẻ, tận tụy với học sinh. + Có rất nhiều tài liệu, tư liệu phục vụ cho việc soạn giảng như: Sách giáo khoa, tư liệu tham khảo, máy tính, máy chiếu, hình ảnh, từ mạng Internet. - Đối với học sinh: + Có một số học sinh đọc diễn cảm và phù hợp với tính cách nhân vật. + Một số học sinh đã đọc đúng, to và rõ ràng nhờ được sự quan tâm của phụ huynh hỗ trợ học sinh đọc bài trước ở nhà. * Hạn chế và nguyên nhân hạn chế: - Về phía giáo viên: + Việc áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy của một số giáo viên còn lúng túng, ngại sử dụng công nghệ thông tin. + Do trình độ giáo viên chưa đồng đều, ngại vận dụng “Đổi mới phương pháp dạy học” nên một số giáo viên quen dạy học phương pháp truyền thống, trong tiết dạy học sinh đọc ít, nhưng phần tìm hiểu nội dung bài chiếm thời gian nhiều hơn, xem nhẹ phần luyện đọc nên đã biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn. - Về phía phụ huynh: + Nhiều phụ huynh còn phó mặc việc học hành của con em cho nhà trường. + Nhiều phụ huynh không nắm rõ và không hiểu cách rèn đọc cho con. - Về phía học sinh: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 4B, tôi nhận thấy việc dạy tập đọc của học sinh còn một số hạn chế: - Đọc chậm, thừa hoặc thiếu. - Học sinh đọc chưa đúng, phát âm sai và đọc ngọng. Do ảnh hưởng tiếng địa phương nên các em chưa chủ động sửa lỗi sai của mình (thành thói quen). - Một số em hiểu nội dung bài đọc, biết chỗ nhấn, ngắt giọng nhưng khi đọc chưa thể hiện được điều đó vì đọc ngại các bạn chê là “điệu”. 2. Các biện pháp đề xuất để rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 4. Biện pháp 1: Khảo sát, phân loại học sinh đầu năm học. Để nắm được khả năng đọc của học sinh, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành tìm hiểu, phân loại học sinh. Tôi kiểm tra về chất lương đọc 33 HS lớp 4B. Kết quả cụ thể như sau : Tiêu chí Lớp thực nghiệm 4B Tổng số % Đọc chưa tốt (ấp úng, đọc ngọng...) 15 45,5 Đọc to, rõ ràng 13 39,4 Đọc tốt 5 15,1 Căn cứ vào khả năng đọc của học sinh, tôi lập thành nhóm học tập. Mỗi nhóm gồm có em tốt, em khá và em kém để các em giúp đỡ lẫn nhau trong học tập để giáo viên dễ dàng kiểm tra, hướng dẫn các em. Biện pháp 2: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học. a. Đối với học sinh: - Trước tiên các em cần chuẩn bị kĩ bài học ở nhà: Đọc thành tiếng ít nhất 10-20 lần, sau đó đọc thầm. Tìm xem bài tập đọc có mấy đoạn (mấy khổ thơ). - Đọc kỹ phần giải nghĩa từ ngữ ở cuối bài. - Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ đó các em có thể nêu được ý chính của bài tập đọc. - Tìm hiểu bài tập đọc thuộc thể loại gì (thơ hay văn xuôi, miêu tả hay truyện kể). Trước khi đọc, bao giờ tôi cũng hướng dẫn cho các em chuẩn bị tâm lí để đọc. Khi ngồi đọc cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30cm, cổ và đầu thẳng. Khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp đọc ngay, cần đọc đủ lớn để cả lớp nghe rõ. Như thế không có nghĩa là đọc quá to hay gào lên. b. Đối với giáo viên: Tôi nhận thấy rằng để thành công một tiết tập đọc, truyền thụ một cách khoa học giáo viên cần chuẩn bị những việc sau: - Soạn bài đầy đủ. Xây dựng các phương pháp giảng dạy một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ nhàng và đạt hiệu quả. - Nắm chắc yêu cầu về rèn đọc ở từng bài và hệ thống câu hỏi trong bài tập đọc. - Tìm hiểu kỹ nội dung bài để hiểu các biện pháp nghệ thuật, cú pháp tác giả dùng. Biện pháp 3: Rèn đọc đúng. a. Luyện đọc tiếng, từ: Khi gọi học sinh đọc, tôi thường yêu cầu cả lớp lắng nghe, nhận xét bạn đọc, để từ đó sửa và khắc phục cho học sinh một số lỗi như: - Đọc thừa hay thiếu từ. - Phát âm sai tiếng có phụ âm đầu “ l” hay “ n”, thanh ‘ hỏi’ hay ‘ngã’. Ví dụ : Khi dạy bài : “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” – Tiếng Việt 4- Tập 1. Học sinh phát âm sai từ “nặc nô”, “lủng củng”, ...thành “lặc lô”, “nủng củng”, ... Đây là lỗi phát âm sai âm đầu “l/n” do cách phát âm địa phương mà một số em mắc phải. Tôi gọi 1 em đọc chuẩn hoặc giáo viên đọc lại các từ đó và yêu cầu học sinh đọc sai phát âm theo. - Phát âm sai các âm chính. Ví dụ: Bài: “Tre Việt Nam” (Tiếng Việt 4 - Tập 1) Học sinh không được đọc là “bạc mầu” mà phải đọc là “bạc màu”. - Phát âm sai các thanh: hỏi- nặng, ngã- sắc. Ví dụ: Bài: “Mẹ ốm” (Tiếng Việt 4- Tập 1) Học sinh không đọc “diến kịch” mà phải đọc là “diễn kịch”, không đọc “ngụ say” mà phải đọc là “ngủ say” Với các bài tập đọc có nhiều từ phiên âm tiếng nước ngoài hoặc tiếng dân tộc như: An-đrây-ca, Đi-ô-ni-dốt, Xi-ôn-cốp-xki, ...trước khi luyện đọc, tôi hướng dẫn các em đọc các từ đó bằng cách ghi lên bảng các từ đó, trước tiên cho học sinh đọc, nếu sai giáo viên sửa (nếu cần thiết giáo viên có thể đọc mẫu- hướng dẫn cách phát âm). b. Luyện cách ngắt, nghỉ hơi: Để học sinh ngắt giọng lô-gic đúng, tôi đã hướng dẫn cách đọc như sau: + Ngắt sau dấu phẩy - là dấu được đặt vào khi câu văn chưa hoàn chỉnh sẽ còn ý tiếp nối. Sau dấu phẩy nghỉ ngắn và lên giọng một chút. + Ngắt sau dấu chấm - là dấu báo hiệu ý trọn vẹn. Vì vậy nghỉ hơi dài hơn so với dấu phẩy, bằng một nửa so với dấu chấm xuống dòng và hạ thấp giọng. + Ngắt hơi sau dấu hai chấm - là dấu báo hiệu điều sẽ được trình bày, giải thích, thuyết minh vấn đề vừa nêu. Khi đọc ngừng lại một chút và hơi hạ giọng. + Đặc biệt với những câu có dấu chấm lửng, khi đọc học sinh còn lúng túng không biết đọc như thế nào, tôi hướng dẫn các em đọc kéo dài chỗ có dấu chấm lửng. Ví dụ: “- Ở... sau bức tra...anh trong nhà của bác Các-lô ạ.” (Bài: “Trong quán ăn ba cá bống” – Tiếng Việt 4 - Tập 1.) Hoặc với câu chỉ nói ngập ngừng, chưa nói hết thì khi đọc cần nghỉ hơi một quãng bằng thời gian phát âm 1 tiếng và đọc với ngữ điệu yếu. Ví dụ: “Chuyện ngày xưa...đã có bờ tre xanh.” (Bài: “Tre Việt Nam” - Tiếng Việt 4 - Tập 1) -Với những câu dài, không có dấu phẩy ta cần dựa vào nghĩa của từ. Với loại câu này tôi gọi học sinh nêu cách ngắt hơi, nghỉ hơi, gạch dưới những từ cần nhấn giọng để học sinh tìm ra cách đọc. Giáo viên là người nhận xét, bổ sung. Sau đó có thể cho học sinh luyện đọc theo cách đọc các em vừa tìm hiểu. Ví dụ: Bài: “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi- Tiếng Việt 4 - Tập 1.“Trên mỗi chiếc tàu, / ông dán dòng chữ/ “Người ta thì đi tàu ta”/ và treo một cái ống/ để khách nào đồng tình với ông/ thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho chủ tàu. //” Ngoài ra, để đọc đúng, tôi còn yêu cầu học sinh khi đọc: - Không được đọc tách một từ ra làm hai. Ví dụ: không đọc: ‘‘Cánh diều mềm/ mại như cánh bướm.’’ mà đọc là: ‘‘Cánh diều mềm mại như cánh bướm.’’ (Bài: ‘‘Cánh diều tuổi thơ’’- Tiếng Việt 4- Tập 1) Biện pháp 4: Rèn đọc hiểu. Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc hiểu, tôi hướng dẫn các em hiểu nội dung và phát hiện tính nghệ thuật của bài tập đọc. Tôi thường sử dụng phương pháp đàm thoại, hỏi đáp kết hợp nêu vấn đề, dẫn dắt, gợi mở, sử dụng đồ dùng trực quan giúp học sinh hiểu nghĩa của từ và nội dung của đoạn, bài. Tôi hướng dẫn các em đọc thầm kết hợp với đọc thành tiếng một đoạn hoặc cả bài và trả lời câu hỏi. Trong quá trình hướng dẫn học sinh hiểu bài tập đọc, tôi cũng thường chú ý sửa cho học sinh đọc đúng tiếng, từ; ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ (nếu có), để các em chuyển sang phần luyện đọc diễn cảm được tốt hơn. Biện pháp 5: Rèn đọc diễn cảm. Một học sinh được coi là biết đọc diễn cảm không thể là học sinh chỉ đọc to, rõ ràng mà còn phải có ngữ điệu, thể hiện tình cảm của mình vào bài đọc đó. Vấn đề đặt ra ở đây là tốc độ đọc thành tiếng phải trùng với lời nói chứ không phải là đọc liến thoắng. Trên cơ sở học sinh đã đọc đúng, đọc lưu loát, hiểu thấu đáo bài đọc, tôi mới tiến hành hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Cụ thể như sau: a. Tìm đúng và đọc đúng giọng: vui, buồn, giận giữ, trang nghiêm, ...phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao. * Với bài tập đọc miêu tả: tôi hướng dẫn các em biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, từ chỉ đặc điểm, tính chất có tác dụng làm nổi bật ý nghĩa của đoạn văn. Ví dụ: Bài: “Hoa học trò”- Tiếng Việt 4- Tập 1 Giáo viên chốt ý: Nhịp đọc hơi nhanh, có thể ngắt hơi và nhấn giọng như sau: “Phượng không phải là một đóa, /không phải vài cành, /phượng đây là cả một loạt, / cả một vùng, / cả một góc trời đỏ rực. // Mỗi hoa chỉ là phần tử của cái xã hội thắm tươi;// người ta quên đóa hoa, / chỉ nghĩ đến cây, / đến hàng, / đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm/ đậu khít nhau. // Tiến hành tương tự như đoạn 1, với đoạn 2, 3 tôi để học sinh nhận ra cách đọc và đọc diễn cảm. * Với bài tập đọc là truyện kể: Tôi hướng dẫn các em đọc đúng lời của nhân vật và chuyển giọng linh hoạt cho phù hợp với từng nhân vật để làm rõ tính cách của nhân vật đó. Ví dụ: Khi dạy bài “Những hạt thóc giống” - Tiếng Việt 4 - Tập 1. - Lời người dẫn chuyện: đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi, thấp hơn lời nói của vua và Chôm. - Lời của Chôm lúc tâu vua : ngây thơ, lo lắng: ‘‘- Tâu bệ hạ ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.” - Lời nói của vua lúc giải thích thóc đã luộc kĩ: ôn tồn: “- Trước khi phát thóc giống ta đã cho luộc kĩ rồi. Lẽ nào thóc ấy còn mọc được? Những xe thóc đầy ắp kia đâu phải thu được từ thóc giống của ta!” - Lời nói của vua lúc khen ngợi Chôm: dõng dạc: “- Trung thực là đức tính quý nhất của con người. Ta sẽ truyền ngôi cho chú bé trung thực và dũng cảm này.” Để rèn khả năng đọc đúng giọng của các nhân vật, tôi tổ chức cho các em đọc phân vai theo nhóm, thi đua, bình chọn, nhóm đọc hay nhất. b. Nhấn giọng vào điệp ngữ: Ví dụ: Bài; “Tre Việt Nam” - Tiếng Việt 4 - Tập 1 Trên cơ sở học sinh đã hiểu những câu thơ ở phần kết thúc bài (đoạn 4). Giáo viên nhận định chốt ý : Nên ngắt nhịp, nghỉ hơi, nhấn giọng vào điệp ngữ “Mai sau”: “Năm qua đi, /tháng qua đi/ Tre già măng mọc/ có gì lạ đâu. // Mai sau/ Mai sau/ Mai sau/ Đất xanh/tre mãi/ xanh màu tre xanh. // c. Nhấn giọng vào đảo ngữ: Ví dụ: Bài: “Đường đi Sa Pa” - Tiếng Việt 4- Tập 2. Để giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ và huyền ảo của SaPa, tôi hướng dẫn các em đọc nhấn giọng những chỗ đảo vị ngữ (trắng long lanh). “Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận.” Nhấn giọng vào hình ảnh so sánh: Ví dụ: Bài: “Con chuồn chuồn nước” - Tiếng Việt 4- Tập 2. Giáo viên chốt cách đọc: “Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.” e. Nhấn giọng những từ ngữ mà tác giả đã dùng những biện pháp nhân hóa. Ví dụ: Bài: “Bè xuôi sông La” - Tiếng Việt 4- Tập 2. Nhà thơ đã nhân hóa sông La, gọi tên sông một cách trìu mến như gọi một con người (nhấn giọng từ “ơi”). “Sông La ơi sông La” Vẻ đẹp của dòng sông La chẳng khác nào vẻ đẹp của một người con gái quê hương. Vì vậy, khi đọc cần nhấn giọng từ “trong veo”, “mươn mướt”. “Sông La ơi sông La Trong veo như ánh mắt Bờ tre xanh im mát Mươn mướt đôi hàng mi.” Trong quá trình rèn đọc diễn cảm, tôi lưu ý học sinh nhấn giọng không có nghĩa là đọc to lên mà chỉ cần phát âm mạnh hơn hoặc ngân dài một chút là được. 3. Thực nghiệm sư phạm a. Mô tả cách thực hiện: Để việc rèn đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc người giáo viên cần: 1. Chuẩn bị chu đáo cho giờ học, dự tính các tình huống xảy ra trên lớp. 2. Giáo viên đọc mẫu phải đúng và hay. 3. Hướng dẫn học sinh tư thế ngồi đọc, làm chủ tia mắt, cách lấy hơi khi đọc làm cơ sở cho đọc đúng. 4. Phát hiện kịp thời những hiện tượng phát âm sai, đọc sai để uốn nắn, sửa chữa. 5. Quan tâm sát sao tới các em đọc yếu, động viên khuyến khích kịp thời với em có sự tiến bộ để tạo hứng thú học tập cho các em. 6. Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy cho phù hợp, vận dụng quan điểm tích hợp khi dạy Tập đọc. Tổ chức thi đọc diễn cảm để giờ học sôi nổi. 7. Người giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề nghiệp. b. Kết quả đạt được: Khi thực hiện đề tài này đã giúp tôi giảng dạy tốt hơn, tự tin hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng dạy - học của giáo viên và học sinh. c. Điều chỉnh , bổ sung sau thực nghiệm: Qua quá trình nghiên cứu tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn khi lên lớp. Say mê chưa đủ mà người giáo viên cần trau dồi khả năng đọc hiểu văn của chính mình để đưa ra những biện pháp hữu hiệu giúp học sinh đọc tốt nhất tác phẩm văn học. 4. Kết luận: Qua một thời gian áp dụng, tôi thấy kĩ năng đọc của các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Các em đọc đúng hơn; biết ngắt, nghỉ hơi, nhấn giọng đúng chỗ; phát âm chuẩn hơn, tốc độ đọc nhanh hơn. Các em đọc bài trôi chảy, to rõ ràng, đọc diễn cảm bài kể chuyện, bài văn, bài thơ, hiểu nghĩa một số từ, nắm nội dung bài tốt. Các em luôn tự giác trong học tập, sách vở luôn giữ gìn sạch đẹp. Các em mạnh dạn trao đổi, thảo luận để hiểu nội dung đoạn bài. Hầu hết các giờ tập học đều diễn ra sổi nổi, tự nhiên, nhẹ nhàng có chất lượng và hiệu quả. Để giúp học sinh đọc đúng, đọc hay, tôi không chỉ rèn đọc cho các em trong giờ Tập đọc mà còn chú ý rèn đọc cho các em trong các giờ học khác, như giờ: Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện Thông qua đề tài này, tôi hi vọng sẽ giúp ích cho giáo viên trường Tiểu học Gia Đông số 1 nói riêng và tất cả giáo viên nói chung có thể giúp các em đọc tốt hơn để đưa chất lượng giáo nên một tầm cao mới. 5. Kiến nghị, đề xuất: a. Đối với tổ chuyên môn: Thường xuyên tổ chức các tiết dạy chuyên đề: Đổi mới phương pháp dạy học môn tập đọc để giáo viên được trao đổi về biện pháp giúp học sinh đọc đúng. b. Đối với lãnh đạo nhà trường: Nên nhân rộng biện pháp của tôi ở cấp trường. c. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo; Sở Giáo dục và Đào tạo: Duy trì các tiết chuyên đề cụm cho giáo viên. Duy trì tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện. PHẦN III: TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 - Sách thiết kế Tiếng Việt 4 – Tập 1, 2 - NXB Hà Nội- 2005. 2 – Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 – Tập 1, 2. 3 - Sách Bồi dưỡng phương pháp dạy Tiếng Việt: Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo. 4 - Một số tạp chí tiểu học. PHẦN IV: MINH CHỨNG VỀ HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP Trong đợt kiểm tra của trường năm học 2019 - 2020. Kết quả khảo sát lớp 4B như sau: Tiêu chí Lớp thực nghiêm (4B ) Trước khi áp dụng biện pháp Sau khi áp dụng biện pháp TS % TS % Đọc chưa tốt (ấp úng, đọc ngọng...) 15 45,5 2 6 Đọc to, rõ ràng 13 39,4 16 48,5 Đọc diễn cảm 5 15,1 15 45,5 Rõ ràng sau khi sử dụng biện pháp số học sinh đọc diễn cảm và đọc to, rõ ràng chiếm 94 % và tăng 39,5 % so với khi chưa áp dụng biện pháp. Trên đây là một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 4 mà tôi đã thực hiện tại trường Tiểu học Gia Đông số 1. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và các nhà quản lí để biện pháp của tôi hoàn thiện hơn. PHẦN V: CAM KẾT Tôi xin cam kết: Biện pháp là chính tôi viết, không sao chép và xâm phạm bản quyền của người khác. Các minh chứng là đúng sự thật. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi xin trân thành cảm ơn! Gia Đông, ngày 29 tháng 10 năm 2020 GIÁO VIÊN Nguyễn Thị Hương
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_cac_bien_phap_nang_cao_chat_luong_ren.doc