Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3 theo chương trình GDPt 2018
Vị trí, nhiệm vụ, nội dung của phân môn tập làm văn lớp 3:
Vị trí:
Ở tiểu học nhất là lớp 3, Tập làm văn là một trong những phân môn có tầm quan trong đặc biệt (ở lớp 2 các em chưa được học, lên lớp 3 học sinh mới bắt đầu được học, được làm quen).
Phân môn Tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt được phát triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết thành bài văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ có những hiểu biết sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Con người văn hóa sẽ hình thành từ các em từ những việc nhỏ nhặt, tưởng như không quan trọng đó.
Nhiệm vụ:
Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân môn Tập làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ “văn bản” được dùng để chỉ sản phẩm hoàn chỉnh của lời nói trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Đó không nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu; nhiều đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là loại văn kể chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, sản phẩm lời nói mà một người tạo lập được có thể chỉ là một câu chào, một lời cảm ơn hay một vài dòng thăm hỏi, chúc mừng trên tấm thiếp,… Đối với lớp 3, dạy Tập làm văn là trước hết là rèn luyện cho học sinh kỹ năng phục vụ học tập và giao tiếp hàng ngày, cụ thể là:
- Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành,…
- Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như: khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư ngắn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh,…
Cuối cùng cũng như các phân môn và môn học khác, phân môn Tập làm văn, thông qua nội dung dạy học của mình, có nhiệm vụ trau dồi cho học sinh thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh cho các em.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh Lớp 3 theo chương trình GDPt 2018

sau: Kể về người thân trong gia đình; kể về một bạn lớp em; kể về gia đình; kể về người qua tranh ảnh (kể về Bác Hồ). a. Hướng dẫn chung về kể người: - Giới thiệu về người mà mình muốn kể: người đó tên là gì? - Kể về hình dáng (cao - thấp, béo – gầy, thon thả....) - Kể về những đặc điểm nổi bật (mái tóc, khuôn mặt, nước da, đôi mắt, hàm răng...) - Kể về tính tình (ngoan, lễ phép, thật thà,) - Kể về hoạt động: làm việc gì?... - Tình cảm của em đối với người em kể. b. Kể về người thân trong gia đình; kể về một bạn lớp em; kể về gia đình Khi kể về người thân, về bạn nhìn chung là giống như hướng dẫn chung về kể người riêng viết về em bé thi khác một chút vì em bé có những nét ngộ nghĩnh , đáng yêu riêng. Giáo viên có thể cho học sinh đọc lại bài Bé Hoa để các em học tập cách tả em bé. Khi kể về gia đình các em chú ý là kể về nhiều người. Họ làm những việc gì thường ngày? Tình cảm của mọi người trong gia đình như thế nào? Ví dụ 1: Viết đoạn văn khoảng 5 câu kể về gia đình em. * Bước 1: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu (theo gợi ý ở sách giáo khoa) * Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm bài: Dựa vào các câu hỏi gợi ý để kể lại theo yêu cầu của đề bài ra. Chú ý: Cần nói thành từng câu thật rõ ràng; khi kể cho bạn nghe, em có thể xưng tôi hoặc tớ, mình, Học sinh có thể viết đoạn văn: Bố em là bộ đội, thường xuyên công tác xa nhà. Mẹ em là giáo viên, dạy ở trường Tiểu học . Chị Mai của em là học sinh trường Trung học cơ sở Cù Chính Lan, còn em là học sinh lớp 2A trường Tiểu học Hoàng hoa Thám. Em rất yêu quý những người thân trong gia đình của mình. Ví dụ 2: Viết khoảng 5 câu kể về một người bạn lớp em. * Bước 1: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu (theo gợi ý ở sách giáo khoa) * Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm bài: Dựa vào các câu hỏi gợi ý để kể lại theo yêu cầu của đề bài ra (bằng miệng, sau đó giáo viên sửa chữa từ ngữ và cho học sinh viết bài hoàn chỉnh vào vở). Chẳng hạn: Hằng Nga là người bạn thân nhất của em. Bạn có mái tóc đen nhánh cắt ngắn trông thật gọn gàng. Bạn rất tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người nên ai cũng yêu quý bạn. Bạn còn là người viết chữ đẹp nhất lớp em. Em học tập được ở bạn rất nhiều điều hay. Sau khi học sinh đã thực hành nói trong nhóm, thực hành nói trước lớp giáo viên hướng dẫn các em sửa cách dùng từ ngữ, viết bài hoàn chỉnh vào vở. c. Tả người thông qua tranh ảnh: Ví dụ: Quan sát ảnh Bác Hồ được treo trong lớp học, trả lời các câu hỏi nêu ở sách giáo khoa. * Bước 1: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu: Quan sát ảnh Bác Hồ được treo trong lớp học, trả lời các câu hỏi nêu ở sách giáo khoa. - Dựa vào ảnh Bác Hồ treo ở lớp học, em hãy quan sát, suy nghĩ và tìm ý (từ ngữ) để diễn đạt. + Xác định vị trí nơi treo ảnh Bác Hồ (Ví dụ: phía trên bảng lớp; phía trên bảng lớp và khẩu hiệu; phía trên bảng lớp và dòng chữ: “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại”; chính giữa bức tường lớn của lớp em,...) + Gương mặt Bác Hồ trong ảnh: Râu tóc Bác như thế nào? Vầng trán Bác ra sao? (cao cao, rộng). Đôi mắt Bác trông thế nào? (sáng ngời, hiền từ, thông minh, như đang mỉm cười với chúng em). + Nhìn ảnh Bác Hồ trong lớp học, em muốn hứa với Bác điều gì? (chăm học, chăm làm, thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, đoàn kết, thật thà). *Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm bài: Trả lời từng câu hỏi trong sách giáo khoa theo kết quả đã quan sát, tìm ý của em; cố gắng diễn đạt thành các câu văn mạch lạc, rõ ý. Học sinh có năng khiếu có thể tập viết những câu văn sinh động theo cách cảm nhận riêng. Ngoài ra, học sinh còn phải thể hiện được tình cảm của mình đối với Bác. Ví dụ: Trong lớp em, ảnh Bác Hồ dược treo trang trọng ở chính giữa bức tường, phía trên bảng lớp. Trong ảnh, em thấy Bác Hồ có mái tóc bạc phơ và chòm râu dài trắng như cước. Đôi mắt hiền từ dưới vầng trán cao của Bác như đang âu yếm nhìn chúng em. Nhìn ảnh Bác, em thầm tự hứa với Bác sẽ thực hiện tốt 5 điều Bác dạy để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. 3.5.3. Kể về con vật, về loài chim: *Bước 1: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu, luyện nói theo câu hỏi gợi ý: Viết về một con vật Chú ý: Em có thể kể về một trong những con vật được vẽ gợi ý trong sách giáo khoa, tập một, trang 137 (bò, chó, gà, ngựa, trâu, mèo) hoặc một con vật nuôi nào khác mà em biết; chỉ cần kể ngắn gọn vài nét tiêu biểu về con vật (khoảng 4 - 5 câu) *Bước 2: Hướng dẫn học sinh kể (bằng lời) - Chọn con vật mà em biết để kể lại theo những câu hỏi gợi ý sau: + Con vật nuôi trong nhà mà em biết là con gì? + Con vật đó có đặc điểm gì nổi bật (về hình dáng, hoạt động) + Vì sao em thích con vật đó? * Bước 3: Hướng dẫn học sinh làm bài: Hướng dẫn học sinh làm bài theo các câu hỏi gợi ý trên. Chú ý dùng những từ ngữ có hình ảnh, màu sắc để kể nhằm làm cho bài văn thêm sinh động. Ngoài ra còn hướng dẫn học sinh lập sơ đồ trước khi làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua bài viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu thích. Ví dụ: Tả một chú gà. Giáo viên cho học sinh nói về hình dáng, hoạt động của con gà và tình cảm của mình đối với con gà. Giáo viên ghi nhanh các ý học sinh trả lời lên bảng thành sơ đồ: Chú gà ở nhà em Mào đỏ Lông nhiều màu Gáy to Ăn thóc Em yêu mến chú gà Con gà Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu, cứ thế tiếp nối nhau lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có nhiều đoạn văn mẫu khác nhau. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa. Hoặc có thể hình thành một đoạn văn qua trò chơi “tiếp sức”, “sắm vai người thân”, để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn được phát triển cả về thể lực và nhân cách, giúp cho học sinh học Tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa thầy và trò, giữa trò với trò, khuyến khích học sinh lồng cảm xúc vào bài làm. Ví dụ: Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, GV cho HS vẽ sơ đồ trên vở nháp. - “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “Nhà em có nuôi một chú gà”. - Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tả: “Tôi có bộ lông nhiều màu sắc. Tôi có cái mào trên đầu. Tôi gáy rất to” - Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà: “Em thường rải thóc cho gà ăn ” - Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện thoải mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em mới tự nhiên. Ví dụ: Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống như sau: “Nó đập cánh và gáy to lắm”. Ta có thể khuyến khích các em là tả đúng rồi nhưng nếu sử dụng một số từ gợi tả thì chắc chắn câu văn sẽ hay hơn nhiều như “nó vỗ cánh và rướn cổ gáy vang”. Lưu ý: Trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự. 3.5.4. Kể về cây cối: *Bước 1: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: - Xác định yêu cầu: Dựa vào gợi ý (sách giáo khoa), viết một đoạn văn ngắn (khoảng 4 – 5 câu) nói về một loài cây mà em thích. - Trước hết, cần lựa chọn một loài cây mà em thích: + Đó là cây gì? trồng ở đâu? + Hình dáng của cây thế nào? (dáng đứng (thân: cao - thấp, thẳng – cong, trơn xù xì; Lá: tán lá, hình dáng, màu sắc...) hoa, quả) + Ích lợi của cây (tìm từ ngữ để diễn tả cho đúng ý): làm đẹp cuộc sống, để trang trí, để ăn, lấy bóng mát, lấy gỗ. + Tình cảm của em với cây: (tưới nước, vun gốc, tỉa lá, bắt sâu) - Có thể xem lại bài thực hành luyện tập về Tập làm văn tuần 28 (bài tập 2, 3) để nắm được cách tả ngắn về cây cối. *Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm bài: - Viết đoạn văn ngắn (4, 5 câu) về một loài cây mà em thích. - Viết nháp rồi sửa lại từ ngữ, câu văn trước khi chép cho sạch sẽ, đúng chính tả vào vở. 3.6. Thực hiện nghiêm túc việc chấm, chữa bài và nhận xét bài làm cho học sinh. Đối với học sinh lớp 3, bài viết của các em vẫn còn lỗi chính tả, lỗi dùng từ, viết câu còn vướng mắc rất nhiều. Chính vì vậy, tôi luôn có ý thức là cần phải rèn cho các em thói quen viết đúng trong mỗi tiếng, mỗi từ, mỗi câu, sử dụng câu đúng, từ hay, Trình bày đoạn văn rõ ràng, sạch đẹp hơn. Để đạt được điều này tôi đã làm tốt công việc chữa và nhận xét bài làm của học sinh. Chấm và chữa bài là công việc lao động vất vả, phức tạp đòi hỏi người giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao, thái độ cẩn trọng, đúng đắn. Giáo viên tiếp xúc với sản phẩm tinh thần của học sinh. Kiểm nghiệm thành quả lao động và giảng dạy, giáo dục của mình. Khi chấm chữa bài giáo viên phải có thái độ thương yêu, tôn trọng học sinh. Đoạn văn là kết quả lao động của các em. Vì thế nó hay hoặc dở vẫn phải tôn trọng. Tránh tuyệt đối tình trạng “Làm cho xong việc” mà coi thường sản phẩm của học sinh làm ra. Trong khi chấm tôi chỉ ra chính xác các loại lỗi mà học sinh đã phạm phải. Ghi và chí rõ đó là lỗi gì? Sai thế nào? Cụ thể hơn tôi ghi vào cuốn sổ công tác để tiện cho việc sửa chữa, khắc phục đối với bài viết của học sinh khi trả bài. Việc ghi lại lỗi sai đó nhằm mục đích phục vụ cho công việc giảng dạy lí thuyết hay sử dụng tư liệu khi trả bài. Qua việc chấm bài, tôi nắm được thực tế bài làm của học sinh (Bài viết đúng nội dung hay chưa? Học sinh còn mắc những loại lỗi nào?), tôi đánh giá, nhận xét trên sự sáng tạo của học sinh, tôn trọng ý tưởng của học sinh. Tuy nhiên cũng cần phải điều chỉnh, sửa chữa nếu chưa phù hợp. Tôi đặc biệt chú trọng đến cách trình bày, diễn đạt của các em (nhất là với những học sinh yếu). Khi thấy bài làm của học trò trình bày vấn đề lủng củng, không rõ ràng hoặc sử dụng từ ngữ không phù hợp, tôi sẽ nhận xét khéo và gợi ý, tập cho các em và cả các bạn khác cùng cân nhắc, diễn đạt lại vấn đề sao cho trôi trảy, rõ ràng, đủ ý và dễ hiểu. Tập cho học sinh biết viết câu đầy đủ bộ phận. Đầu tiên tôi cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Đọc cho học sinh nghe những đoạn văn hay của bạn để các em học tập những câu văn, ý văn hay tập vận dụng vào bài làm của mình và giúp các em nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề bài, những bài làm thể hiện sự suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình. Trao đổi, bàn bạc, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm của mình. Để thực hiện được vấn đề đó phải phát huy vai trò chủ đạo của thầy và chủ động của trò trong quá trình dạy học. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Trong quá trình giảng dạy, áp dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi rất hứng thú học văn, nhất là học về “Viết đoạn văn ngắn”. Các em đã mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Khi viết văn, các em đã biết cách diễn đạt rõ ràng, viết câu đủ ý, có hình ảnh và có sự sáng tạo. Khảo sát chất lượng lần 2 vào cuối tháng 2 và thu được kết quả như sau: Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 4-6 câu) về em bé của em (hoặc em bé nhà hàng xóm). Tổng số học sinh Kết quả khảo sát Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL SL TL SL TL SL TL 35 8 22,9 15 42,9 12 34,2 0 0 - So với kết quả khảo sát đầu năm học thì kết quả kiểm tra ở học kì 2 có nhiều tiến bộ rõ rệt. Số học sinh đạt ở mức điểm từ 7-10 tăng lên rất nhiều, từ 31,4% lên 65,7%, không còn học sinh có mức điểm dưới 5. - Các em đã hạn chế được những lỗi sai cơ bản trong khi viết văn như lỗi về chính tả, cách dùng từ, viết câu, cách điễn đạt,. - Thực hiện viết được đoạn văn hay, sinh động và hấp dẫn người đọc. - Khắc phục được những sai lầm, các em tự tin hơn trong học tập. Đó chính là động lực thúc đẩy góp phần nâng cao chất lượng môn học. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Bất kì mỗi ai nhìn đoạn văn của học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch sẽ, diễn đạt rõ ràng, đủ số câu, ý phong phú, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc thì cũng đều thấy thích thú và vui mừng. Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ. Việc dạy cho học sinh biết cách học tốt phân môn Tập làm văn cũng là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như tính cẩn thận, chịu khó, tự tin, óc tư duy, sáng tạo, Bên cạnh đó, tôi nhận thấy rằng những em tiếp thu chậm, việc viết đoạn văn sạch sẽ, rõ ràng là yêu cầu không quá cao, nhưng muốn viết hay thì yêu cầu trẻ phải kiên nhẫn, gắng công khổ luyện nhiều hơn. Qua thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học. - Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới. - Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức. - Sử dụng nhiều hình thức: thi đua, khen thưởng, trò chơi học tập khuyến khích các em nỗ lực trong học tập. - Giáo viên cần phải thương yêu, gần gũi giúp đỡ học sinh, luôn quan tâm tìm hiểu xem các em vấp phải khó khăn gì trong việc làm bài để từ đó khắc phục những khó khăn các em vướng mắc. - Thực hiện việc chấm bài thường xuyên, nhận xét cụ thể những ưu điểm, tồn tại của học sinh để học sinh ngày càng tiến bộ. Có thể nói, để gặt hái được nhiều thành công trong mọi việc đều phải có lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện. Chính vì vậy, ngoài những biện pháp trên thì người thầy phải khơi dậy ở các em lòng say mê học tập, thổi vào học sinh luồng sinh khí mới với những hoài bão và ước mơ cao đẹp. Giáo viên liên tục khích lệ những em học tốt môn học này nhằm động viên phong trào học tập ngày một tốt hơn trong nhà trường hiện nay. Cần giữ mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh, vì cha mẹ học sinh là nhân tố quan trọng giúp các em thực hiện tốt việc học tập. 2. Kiến nghị: - Phòng GD&ĐT tạo điều kiện cho giáo viên trực tiếp giảng dạy ở các trường tiểu học thường xuyên được tập huấn nghiệp vụ, chuyên môn, được hội thảo, tham quan học tập,để ngày một nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kĩ năng sư phạm, tăng sự hiểu biết, bổ sung kinh nghiệm trong giảng dạy. - Thường xuyên tổ chức các tiết dạy mẫu phân môn tập làm văn theo phạm vi cấp cụm, thành phố để giáo viên có cơ hội học hỏi, giao lưu, nâng cao về năng lực chuyên môn và cách sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp. Với khả năng nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm trong dạy học còn hạn chế, sáng kiến kinh nghiệm của bản thân chắc chắn khó tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp chân thành của Hội đồng khoa học các cấp, của đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ , ngày 20 tháng 8 năm 2022 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện .. TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ky_nang_viet_doan_van_ch.docx