Mô tả SKKN Biện pháp rèn kĩ năng đọc nhằm phát huy năng lực cho học sinh Lớp 4 trong giờ Tập đọc

Mục đích của dạy Tập đọc là hình thành kĩ năng đọc - một trong bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) của năng lực thực tiễn hoạt động ngôn ngữ. Những kĩ năng đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng bộ phận cũng là 4 yêu cầu về chất lượng của đọc: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm.

Với học sinh lớp 4, phân môn tập đọc tiếp tục giúp học sinh rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản ở mức cao hơn, cụ thể là: biết đọc là phải hiểu nghĩa của từ, tìm được các từ "chìa khoá", câu "chìa khoá" (câu trọng yếu, câu chốt) trong bài. Nhận biết được đề tài hoặc chủ đề đơn giản đơn giản của bài; nắm được dàn ý của bài; biết tóm tắt đoạn bài; hiểu được ý nghĩa bài; biết phát hiện và bước đầu nhận định về giá trị của một số nhân vật, hình ảnh trong các bài tập đọc có giá trị văn chương; làm quen với đọc lướt để nắm ý hoặc chọn ý. Những kĩ năng nêu trên không phải tự nhiên mà có.

Trong thực tế, học sinh có đọc thông thì viết mới thạo, mới hiểu được nội dung thông báo của văn bản. Tuy nhiên trong các giờ Tập đọc trước đây, không phải học sinh nào cũng được đọc. Hơn nữa, ở lớp 4, lớp học tập của học sinh Tiểu học giai đoạn cuối cần phải học sâu hơn về các kiến thức, kĩ năng trước đó.

Qua dự giờ và trực tiếp giảng dạy, tôi thấy: Ở một số lớp, trong giờ tập đọc còn có nhiều học sinh không chủ động, tích cực tham gia các hoạt động. Đa số học sinh đọc to, nhưng đặc biệt ngữ điệu đọc (ngắt, nghỉ, nhấn giọng) nhiều em đọc chưa thật chuẩn. Đặc biệt có em chưa biết nhấn giọng vì chưa hiểu nội dung câu, đoạn, bài.

Ở những bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp hoặc ngay ở những câu ngắn cũng mắc lỗi đọc ngắt giọng do các em chưa nắm quan hệ ngữ pháp giữa các từ. Lúc này các em thường ngắt giọng để lấy hơi một cách tùy tiện mà không tính đến nghĩa.

docx 12 trang Thu Nga 19/03/2025 200
Bạn đang xem tài liệu "Mô tả SKKN Biện pháp rèn kĩ năng đọc nhằm phát huy năng lực cho học sinh Lớp 4 trong giờ Tập đọc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô tả SKKN Biện pháp rèn kĩ năng đọc nhằm phát huy năng lực cho học sinh Lớp 4 trong giờ Tập đọc

Mô tả SKKN Biện pháp rèn kĩ năng đọc nhằm phát huy năng lực cho học sinh Lớp 4 trong giờ Tập đọc
ể thấy được sự khác biệt giữa các lỗi phát âm và chuẩn.
* Đọc đúng tiếng có các âm cuối dễ lẫn:
	Một số em thường đọc ngọng “luôn luôn” thành “luông luông” hay “ngạt mũi” thành “ngạc mũi”, “lười nhác” thành “lười nhát”. Với những trường hợp các em đọc như vậy, tôi luyện cho các em phát âm lại những từ đó nhiều lần, phân tích tiếng để các em hiểu và phát âm chuẩn hơn. Khi các em đã được luyện đọc đúng các tiếng rồi thì việc tiếp theo tôi cần hướng dẫn các em thực hiện các yêu cầu nâng cao hơn. 
 b. Rèn cách ngắt, nghỉ hơi đúng.
 Trước hết giáo viên phải hiểu rằng: nhờ hiểu nghĩa và quan hệ ngữ pháp, ta đọc đúng chỗ ngắt giọng. Ngược lại, chỗ ngắt giọng cũng là căn cứ để người nghe xác định được ý nghĩa từ vựng, ngữ pháp, nội dung của bài đọc. 
	Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra là một cách đọc không để ý đến nghĩa. Vì vậy, đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. 
 Vì vậy, tôi hướng dẫn học sinh chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp của chỗ ngắt giọng. Dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai khi đọc cũng là xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài tập đọc cụ thể. Từ đó dạy đọc đúng và đọc hiểu các văn bản, hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu của câu hỏi, câu cảm. Đặc biệt, học sinh biết nghỉ hơi đúng và biết nhấn giọng từ ngữ làm rõ ý đoạn văn. Học sinh biết đọc ngắt nghỉ theo dấu câu và còn biết ngắt giọng, nhấn giọng như vậy sẽ giúp các em hiểu và nắm chắc nội dung đoạn văn. 
Bên cạnh việc dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp và kết hợp nhấn giọng biểu cảm như trên, cần phải dạy ngắt giọng biểu cảm cho các em đó. Ngắt giọng biểu cảm là chỗ ngừng lâu hơn bình thường hoặc chỗ ngừng không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, tập trung sự chú ý của học sinh vào sau những từ ngữ chỗ ngừng, những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa. Ngắt giọng đúng và hay là đích của dạy đọc và cũng là một trong những phương tiện để dạy tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản được đọc. Tức là ta đã dạy - rèn được kĩ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp mình. 
c. Rèn đọc nhanh, đọc lưu loát
Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, đọc nhanh là nói đến 
mức độ đọc về mặt tốc độ. Vấn đề đọc nhanh chỉ xảy ra sau khi đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không đọc ê a, ngắc ngứ vừa đọc vừa đánh vần. Song đọc nhanh không phải là đọc ào ào, liến thoắng, không thể hiện 
được nội dung, tình cảm của bài Tập đọc.
 Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời. Khi đọc thầm tốc độ sẽ nhanh hơn. Khi đọc cho người khác nghe thì phải đọc tốc độ kịp thời cho người nghe hiểu được. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc.  
+ Hướng dẫn học sinh nắm được tiêu chí cường độ đọc: Đọc to là đọc đủ nghe, rõ ràng, không có nghĩa là gào lên. Giáo viên cần rèn cho học sinh ngay cả khi nói, khi trả lời câu hỏi cũng phải điều chỉnh âm lượng to đủ nghe, rèn trong mỗi bài tập đọc, trong các bài học khác, trong giao tiếp.... đến khi học sinh có thói quen đọc to. 
+ Luyện cho học sinh không đọc ê a, ngắc ngứ, đọc lặp lại. Tốc độ đọc đảm bảo theo yêu cầu, không đọc nhanh quá hay chậm quá. Muốn vậy phải luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc. 
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu đúng, chính xác để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều khiển tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc (có thể gõ thước làm nhịp cho học sinh giữ nhịp đọc). 
+ Đối với những em còn đọc ê a hoặc đọc liến thoắng giáo viên cần chỉ ra chính xác lỗi đọc sai của các em rồi từ từ hướng dẫn các em sửa theo mẫu của giáo viên. 
+ Giáo viên cần sử dụng triệt để hình thức đọc thành tiếng nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự kiểm tra của thầy của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách đọc bài Tập đọc trước và dự tính sẽ đọc trong thời gian mấy phút. Tốc độ đọc như thế nào còn phụ thuộc và độ khó của bài đọc.
 d. Rèn đọc diễn cảm
 * Cung cấp mẫu: 
 - Đưa ra giọng đọc mẫu thể hiện chính xác các chỉ số âm thanh, phù hợp với nội dung bài đọc, phô diễn được cảm xúc mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc một cách sáng tạo.
 - Để tăng hứng thú cho HS trong giờ học, chúng ta cần thể hiện mẫu bằng nhiều đối tượng hoặc phương tiện khác nhau (giáo viên/học sinh khá giỏi/băng hình, băng tiếng,....). Khi đọc mẫu hoặc cung cấp mẫu, chúng ta lưu ý vị trí thích hợp để cả lớp theo dõi, quan sát mẫu tốt; cần tạo không khí học tập, tâm thế cho học sinh trước khi đọc mẫu (thái độ của học sinh biết chờ đợi nghe giọng đọc mẫu, im lặng, trật tự,...).
 * Phân tích giọng đọc mẫu:
 - Giúp HS hiểu rõ các yêu cầu trong giọng đọc mẫu một cách có ý thức, từ đó tránh bắt chước giọng đọc mẫu một cách máy móc.
 - Phân tích giúp HS hình dung cách đọc một cách cụ thể. Cách phân tích cần dễ hiểu, không dùng thuật ngữ ngôn ngữ học nhằm phù hợp với nhận thức mang tính trực quan, cụ thể của học sinh.
 * Luyện theo giọng đọc mẫu:
 - Cho học sinh luyện đọc theo nhiều hình thức khác nhau: cá nhân, nhóm, thi đọc, đọc phân vai,
 * Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc:
 - Giáo viên nhận xét, sửa chữa về cách đọc diễn cảm bài đọc của học sinh.
 - Tổ chức nhận xét điều chỉnh, khái quát theo nhóm hoặc tập thể lớp.
  - Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm tùy theo loại từng loại văn bản.
	4. Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp để học sinh cảm thụ tốt nội dung bài đọc, qua đó học sinh đọc diễn cảm tốt hơn. 
4.1. Dạy học sinh xác định nội dung đọc hiểu trong tìm hiểu bài
 Việc quan trọng đầu tiên là phải xác định nội dung đọc hiểu để rèn kĩ năng đọc hiểu. Kĩ năng đọc hiểu bao gồm những yếu tố gì? ví như hiểu nghĩa từ, tìm được “từ khóa’’, “câu khóa’’ trong bài, tóm tắt được nội dung đoạn bài, phát hiện ra những yếu tố văn chương và giá trị của chúng trong biểu đạt nội dung. 
	4.2. Tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua xây dựng hệ thống câu hỏi dạy đọc hiểu.
	Trước khi dạy bài đọc tôi cần phân loại dạng bài tập đọc
 - Bài tập đọc dạy đọc hiểu tiếp nhận thông tin: “Cái gì quý nhất”; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính’’; “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi’’; “Vẽ về cuộc sống an toàn’’; “Người tìm đường lên các vì sao’’...
	Tôi đã bổ sung các dạng câu hỏi: 
	+ Đặt lại tên cho bài 
	+ Lựa chọn trong các tên cho sẵn một tên thích hợp nhất 
	+ Ghi lại câu văn (có trong bài) nói được ý nghĩa chung cả bài...
	Ví dụ: Dạy xong bài “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi’’, tôi yêu cầu học sinh ghi lại câu văn có trong bài, nói được ý nghĩa chung cho cả bài. Chắc chắn học sinh nào cũng ghi được câu cuối bài với sự hướng dẫn của giáo viên: Chỉ trong mười năm, Bạch Thái Bưởi đã trở thành “một bậc anh hùng kinh tế’’ như đánh giá của người đương thời. Như vậy học sinh cả lớp cùng được hoạt động. (Học sinh trung bình có thể đặt được một tên cho truyện nhưng học sinh khá giỏi có thể sẽ đặt được nhiều tên cho truyện hơn).
 Ở dạng bài tập đọc này, tôi hướng dẫn học sinh xác định được ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích của bài, làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. Điều này giúp cho HS khắc phục được những các đọc thiên về hình thức hoặc diễn cảm tùy tiện. 
	- Bài tập đọc dạy đọc hiểu nhiều yếu tố văn hoặc văn bản văn chương là các bài văn thơ hoặc những bài có nhiều yếu tố văn chương. Với những bài này cần có những bài tập phát hiện ra những yếu tố văn, cảm nhận và đánh giá được giá trị, tác dụng của chúng trong tác phẩm. Những yếu tố văn có thể là việc dùng từ có hình ảnh, việc sử dụng các biện pháp tu từ, dùng từ theo nghĩa bóng, chuyển nghĩa, xây dựng nhân vật... Cách chuyển những yếu tố văn này cho học sinh không phải bằng lí thuyết diễn giảng, mà phải thông qua hệ thống bài tập dạy đọc hiểu. Việc xây dựng hệ thống bài tập dạy đọc hiểu thực chất là đổi mới phương pháp dạy Tập đọc ở Tiểu học, điều chỉnh nội dung dạy - học Tập đọc ở Tiểu học trong khuôn khổ cho phép. 
 Ở dạng bài tập đọc này, tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua dẫn dắt, gợi mở giúp các em thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài.
	Về hình thức, đó là chuyển hành động bằng lời của học sinh thành hành động vật chất (dùng các kí hiệu để vẽ, tô, nối đánh dấu,viết câu trả lời ngắn...) trong những bài tập có tính chất trắc nghiệm như điền thế, lựa chọn đối chiếu cặp đôi, yêu cầu trả lời ngắn gọn.
	Về nội dung, cách hiểu về năng lực đọc cũng như những điều tôi đã phân tích về thực trạng dạy - học Tập đọc ở trên. Để điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi tôi đã làm như sau:
 * Rà soát lại hệ thống câu hỏi ở SGK: Chuyển thành những câu hỏi sử dụng hành động vật chất viết, vẽ, tô, nối, đánh dấu, khoanh tròn... dưới hình thức trắc nghiệm. Hoặc cũng có thể kết hợp thay đổi hình thức dùng lời: một người hỏi, một người trả lời (thảo luận nhóm đôi). Làm như vậy sẽ tích cực hóa hoạt động của học sinh. Mọi học sinh cùng phải làm, mọi học sinh cùng phải nói, rồi các nhóm lần lượt trả lời, nhóm khác nhận xét, bổ sung. 
 * Điều chỉnh nội dung dạy đọc hiểu: Bằng cách bổ sung thêm các dạng câu hỏi cho tất cả các loại bài thuộc phong cách khác nhau
 + Câu hỏi yêu cầu học sinh khái quát ý của đoạn, bài: Mục đích của bài tập này giúp học sinh có kĩ năng tóm tắt văn bản, rút ra được ý chính của nó. Với những tác phẩm văn chương, học sinh biết phân tích đề tài, chủ đề trả lời được câu hỏi: “Bài nói về cái gì, và người ta muốn đạt đến cái gì với văn bản đó?’’. Đầu tiên, cần cho học sinh đi từ những bài tập lựa chọn những câu trả lời có sẵn, cuối cùng mới nêu yêu cầu các em tóm tắt ý chính của đoạn bài.
	+ Câu hỏi yêu cầu học sinh đặt tên khác cho bài. Học sinh có thể đặt tên cho đề tài hoặc theo chủ đề hoặc cả hai tùy theo tên bài có sẵn.
	+ Câu hỏi yêu cầu xác định nội dung, chủ đề của bài, với hình thức bài tập có thể là: Đọc lướt toàn bài tìm câu văn nêu ý nghĩa hoặc nội dung của bài.
	Cần phải khẳng định lại một lần nữa là việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 nói riêng, cho học sinh Tiểu học nói chung không có nghĩa là tăng thời gian tìm hiểu bài, giảm thời gian luyện đọc thành tiếng trong giờ Tập đọc, mà là coi trọng chất lượng đọc, tạo ra sự gắn bó hữu cơ giữa hiểu và đọc thành tiếng, sao cho kĩ năng làm việc với văn bản, việc hiểu bài sẽ hoàn thiện kĩ năng đọc thành tiếng, hướng đến đọc có ý thức bài đọc.
II.2. Tính mới, tính sáng tạo
1. Tính mới 
- Học sinh hiểu được giá trị của kiến thức Tiếng Việt, biết vận dụng kiến thức đã học vào học tập và thực tiễn cuộc sống. Tạo cho học sinh sự thích thú với học Tiếng Việt, kích thích sự ham học hỏi và giúp các em rèn luyện kĩ năng tập trung, nói, viết đúng chính tả. Từ đó, các em có kĩ năng cần thiết vận dụng các bài đã học để giải quyết các vấn đề thực tế.
- Giúp giáo viên có thể áp dụng hiệu quả, điều chỉnh phương pháp dạy học Tiếng Việt phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 
2. Tính sáng tạo:
- Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học và kết hợp với trải nghiệm thực tế giúp giáo viên có chủ động trong việc lựa chọn thay đổi tài liệu hay bổ sung ngữ liệu phục vụ bài giảng, lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức lớp học mà vẫn đảm bảo được mục tiêu của bài học giúp các em chủ động đoàn kết có kĩ năng hoạt động theo nhóm tốt.
- Đồng thời giúp học sinh có điều kiện thể hiện mình hơn, góp phần hình 
thành và phát triển ở các em các phẩm chất và năng lực như khả năng làm việc cá nhân, như tinh thần đoàn kết, tính trung thực, tính kỉ luật, khả năng hợp tác cùng bạn bè, kĩ năng giao tiếp, khả năng diễn đạt nội dung thông tin cần trao đổi. Qua đây giúp giáo viên có điều kiện tốt hơn để phân hóa đối tượng học sinh; từ đó có những điều chỉnh hợp lí trong giảng dạy và đánh giá học sinh. 
- Thay thế việc giáo viên hỏi học sinh trả lời, tôi định hướng cho học sinh làm chủ kiến thức và áp dụng kiến thức, tìm ra phương pháp giải quyết các vấn đề thực tế để tiếp thu kiến thức bài học, tạo sự lôi cuốn khi học.
II.3. Khả năng áp dụng, nhân rộng:
 Qua quá trình nghiên cứu, áp dụng các biện pháp, tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của phân môn Tập đọc. Tôi đã áp dụng vào dạy cho học sinh lớp 4 và đã thu được kết quả khả quan, học sinh hào hứng học tập. Sáng kiến này cũng giúp cho giáo viên chủ động hơn, tích cực nghiên cứu áp dụng cho các em học sinh, đưa ra được nhiều tình huống cụ thể gây hứng thú học tập cho học sinh. Kết quả đạt được nhìn thấy rõ rệt: Học sinh không những đọc to, rõ ràng mà còn phải đọc đúng chỗ ngắt giọng trong sự thống nhất với hiểu văn bản được đọc. Học sinh đọc liền từ, cụm từ, từ đó rèn học sinh đọc ngắt giọng đúng ngữ nghĩa, ngữ pháp và có thể tiến tới ngắt giọng trong biểu cảm. Học sinh xác định được nội dung đọc hiểu tích cực, đọc đúng yêu cầu. Đồng thời, nhờ áp dụng các biện pháp nêu trên, trong mỗi giờ học đã phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Kết quả học tập môn Tiếng Việt của các em có sự tiến bộ rõ rệt so với đầu năm.
* Bảng đối chiếu kết quả trước và sau khi áp dụng biện pháp cho học sinh lớp 4B năm học 2021 – 2022:
Thời điểm khảo sát
Tổng số học sinh
Đọc diễn cảm, hiểu nội dung
Đọc đúng, hiểu nội dung
Đọc đúng, chưa hiểu nội dung
Đọc phát âm chưa đúng, ngắt nghỉ chưa hợp lí, chưa hiểu nội dung
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu năm
năm

41
5
12,2
15
36,7
17
38,9
5
12,2

Cuối HK1
41
28
68,3
12
29,3
1
2,4
0
0

Các biện pháp tôi đưa ra rất dễ sử dụng, có thể triển khai rộng rãi tới những giáo viên dạy lớp 4 trong trường và trong Huyện.
II.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
a. Hiệu quả kinh tế:
 Sáng kiến này rất khả quan, không tốn kém nhiều về tiền bạc ở khâu chuẩn bị đồ dùng, cở sở vật chất cho việc thực hiện vì có thể tận dụng những điều kiện vật chất sẵn có.
b. Hiệu quả về mặt xã hội:
 Việc rèn kĩ năng đọc rất cần thiết và quan trọng trong dạy học Tập đọc ở lớp 4 cũng như ở các khối lớp khác. Nó đã nâng cao được kết quả học tập phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học An Tiến – An Lão – Hải Phòng. 
c. Giá trị làm lợi khác:
 Thông qua việc áp dụng các biện pháp vào dạy cho học sinh lớp 4, tôi đã thu được kết quả khả quan, học sinh hào hứng học tập. Sáng kiến này cũng giúp cho giáo viên chủ động hơn, tích cực nghiên cứu áp dụng cho các em học sinh, đưa ra được nhiều tình huống cụ thể gây hứng thú học tập cho học sinh.
 Trên đây là sáng kiến: “Biện pháp rèn kĩ năng đọc nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 4 trong giờ Tập đọc”. Sáng kiến trên mặc dù viết trong thời gian ngắn với kinh nghiệm có hạn tôi đã rất cố gắng nhưng không tránh được thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm, chia sẻ, đóng góp của Hội đồng khoa học và lãnh đạo cấp trên để tôi rút kinh nghiệm và tiếp tục áp dụng vào thực tế ngày một hoàn thiện hơn.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
An Tiến, ngày 10 tháng 1 năm 2022
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
 Bùi Thị Minh Hoa



File đính kèm:

  • docxmo_ta_skkn_bien_phap_ren_ki_nang_doc_nham_phat_huy_nang_luc.docx