Đơn công nhận SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh Lớp 1 trường Tiểu học Đông Sơn
Việc làm mẫu của giáo viên là vô cùng quan trọng. Hàng ngày, tới lớp các em tiếp xúc nhiều với cô nên việc cô phát âm chuẩn xác hay không ảnh hưởng rất lớn tới việc phát âm của học sinh. Muốn học sinh đọc đúng, phát âm đúng thì trước hết giáo viên phải làm đúng.
Giáo viên cần phải phát âm chuẩn, rõ ràng, chính xác. để học sinh phát âm theo.
Khi phát âm mẫu, giáo viên cần lựa chọn vị trí đứng thích hợp, sao cho cả lớp đều nghe thấy và nhìn thấy cô phát âm.
Giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng nghe và quan sát khi cô phát âm mẫu.
Với những âm, vần học sinh phát âm hay nhầm lẫn, giáo viên cần hướng dẫn chậm, tỉ mỉ, từ hình dáng môi, lưỡi, răng, hơi, …
- VD: Học sinh phát âm nhầm lẫn l/n; gi/d/r giáo viên hướng dẫn học sinh:
+ Âm /l/: Uốn cong lưỡi rồi phát âm bật mạnh ra.
+ Âm /n/: Lưỡi sát với lợi trên, sau đó bật lưỡi cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi.
+ Âm /gi/: Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau, phát âm hơi nhấn giọng, kéo dài tạo âm gió.
+ Âm /d/: Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau, mở miệng và phát âm nhẹ.
+ Âm /r/: Uốn cong, rung lưỡi khi phát âm.
Học sinh nhầm lẫn khi phát âm vần có âm cuối n/t; m/p; ng/c, giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
+ Vần có âm cuối /n/: Môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi.
Vần có âm cuối /p/: Môi mở hơi rộng, khi phát âm xong miệng ngậm lại.
+ Vần có âm cuối /c/: Khi phát âm miệng mở rộng. Với những học sinh nhầm lẫn khi phát âm dấu thanh, giáo viên hướng dẫn học sinh:
+ Thanh ngã: Đọc nhấn mạnh, miệng hơi bẹt, hơi kéo dài.
+ Thanh sắc: Đọc nhẹ hơn, hơi ngắn, không kéo dài.
+ Thanh hỏi: Phát âm nhẹ, kéo dài hơi.
+ Thanh nặng: Phát âm nặng, dứt khoát.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đơn công nhận SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh Lớp 1 trường Tiểu học Đông Sơn

g quan tâm kèm cặp hỗ trợ các em kịp thời thì dễ có nguy cơ không hoàn thành chương trình lớp học hoặc hoàn thành chương trình chưa vững chắc. Đây cũng là vấn đề các bậc cha mẹ, xã hội cần quan tâm. Nhất là trong giai đoạn dạy học theo chương trình phổ thông 2018. Là giáo viên tôi luôn trăn trở “Làm thế nào để giúp các em học sinh lớp 1 đọc đúng, học tốt môn Tiếng Việt”. Chính vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu, áp dụng: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh lớp 1.” * Ưu - nhược điểm của giải pháp cũ - Ưu điểm: + Đa số học sinh đọc được bài đọc. - Nhược điểm: + Về giáo viên: Lời giới thiệu khô khan chưa gây hứng thú trước khi vào bài học. Việc đổi mới phương pháp chưa nhiều, chưa thực sự phát huy tính chủ động của học sinh. + Về học sinh: Học sinh còn chưa nắm rõ các quy tắc đọc, khi đọc vẫn còn sai lỗi, lúng túng khi đọc bài. Để khắc phục nhược điểm này tôi áp dụng giải pháp sau: 2. Giải pháp mới cải tiến: - Mô tả bản chất của giải pháp mới: 1.1 Giải pháp 1: Giáo viên làm mẫu, hướng dẫn học sinh phát âm Việc làm mẫu của giáo viên là vô cùng quan trọng. Hàng ngày, tới lớp các em tiếp xúc nhiều với cô nên việc cô phát âm chuẩn xác hay không ảnh hưởng rất lớn tới việc phát âm của học sinh. Muốn học sinh đọc đúng, phát âm đúng thì trước hết giáo viên phải làm đúng. Giáo viên cần phải phát âm chuẩn, rõ ràng, chính xác. để học sinh phát âm theo. Khi phát âm mẫu, giáo viên cần lựa chọn vị trí đứng thích hợp, sao cho cả lớp đều nghe thấy và nhìn thấy cô phát âm. Giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng nghe và quan sát khi cô phát âm mẫu. Với những âm, vần học sinh phát âm hay nhầm lẫn, giáo viên cần hướng dẫn chậm, tỉ mỉ, từ hình dáng môi, lưỡi, răng, hơi, - VD: Học sinh phát âm nhầm lẫn l/n; gi/d/r giáo viên hướng dẫn học sinh: + Âm /l/: Uốn cong lưỡi rồi phát âm bật mạnh ra. + Âm /n/: Lưỡi sát với lợi trên, sau đó bật lưỡi cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi. + Âm /gi/: Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau, phát âm hơi nhấn giọng, kéo dài tạo âm gió. + Âm /d/: Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau, mở miệng và phát âm nhẹ. + Âm /r/: Uốn cong, rung lưỡi khi phát âm. Học sinh nhầm lẫn khi phát âm vần có âm cuối n/t; m/p; ng/c, giáo viên cần hướng dẫn học sinh: + Vần có âm cuối /n/: Môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Vần có âm cuối /p/: Môi mở hơi rộng, khi phát âm xong miệng ngậm lại. + Vần có âm cuối /c/: Khi phát âm miệng mở rộng. Với những học sinh nhầm lẫn khi phát âm dấu thanh, giáo viên hướng dẫn học sinh: + Thanh ngã: Đọc nhấn mạnh, miệng hơi bẹt, hơi kéo dài. + Thanh sắc: Đọc nhẹ hơn, hơi ngắn, không kéo dài. + Thanh hỏi: Phát âm nhẹ, kéo dài hơi. + Thanh nặng: Phát âm nặng, dứt khoát. Sau khi hướng dẫn học sinh phát âm cần cho học sinh thực hành trong nhóm để tạo sự tương tác giữa hai học sinh ngồi cùng nhau. Rèn cho học sinh kĩ năng phát hiện và hỗ trợ bạn khi bạn gặp khó khăn. Nắm chắc trình độ của học sinh, nhất là những học sinh cần được hỗ trợ để giúp đỡ kịp thời trong tiết học. Thường xuyên quan tâm, động viên, khuyến khích các em cố gắng. Nắm bắt những điểm yếu của từng nhóm học sinh để có những giải pháp giúp đỡ hợp lí. Khi học sinh phát âm chưa đúng, điều chỉnh nhiều lần vẫn chưa được, các em sẽ chán nản. Khi đó, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, động viên, khích lệ học sinh cố gắng. Như vậy sẽ tạo được sự quyết tâm cho học sinh. Giáo viên cũng cần nghiêm khắc với học sinh, không cho học sinh bỏ dở giữa chừng. Rèn cho học sinh kiên nhẫn, học đâu nắm chắc được tới đó, chưa đọc được thì đọc lại cho tới khi đọc đúng. Trong mỗi tiết học, giáo viên sử dụng nhiều hình thức luyện đọc như lớp, tổ, nhóm, cá nhân. Đặc biệt chú ý cho những học sinh hay nhầm lẫn đọc cá nhân để phát hiện lỗi và chỉnh sửa kịp thời. Không chỉ trong giờ Tiếng Việt mà trong bất kì môn học khác, giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng phát âm đúng. Thời gian học buổi sáng không đủ thì giáo viên có thể hỗ trợ, rèn đọc cho học sinh vào các buổi chiều. 1.2 Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách đánh vần Với phần đọc tiếng, từ, bài đọc, nhiều học sinh còn lúng túng, gặp khó khăn. Vì thế, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đánh vần theo cơ chế tách đôi: VD: Tiếng /hường/, học sinh có thể đánh vần như sau: Ư - ơ – ng - ương, hờ - ương – hương - huyền - hường. Học sinh nhận thức tốt hơn thì chỉ cần đánh vần: hờ - ương - hương- huyền - hường. Cho học sinh thực hiện đánh vần nhiều lần để ghi nhớ cách đánh vần. Ban đầu, để học sinh đánh vần to thành tiếng, sau đó chuyển dần sang đánh vần thầm. Khi đã thành thạo, học sinh chỉ đánh vần bằng mắt rồi đọc trơn. 1.3 Giải pháp 3: Biện pháp khi dạy các bài học trong sách giáo khoa 2.3.1. Đối với dạng bài dạy âm, vần Phần âm Tôi cho học sinh phải thuộc tên gọi chữ cái in hoa và chữ cái in thường. Có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các chữ cái với nhau để tạo thành vần thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Đối với các âm ghép, đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm. Trong từng tiết học, từng bài ôn, tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của các em thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ, Từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh. Phần vần - Để học sinh học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen nhận diện phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững VD Khi dạy bài 31: an, ăn, ân. + Nhận diện vần: HS so sánh 3 vần nêu điểm giống nhau và khác nhau của 3 vần. + Hướng dẫn cách đánh vần: a-nờ- an, ă- nờ- ăn, â- nờ- ân. + Hướng dẫn đọc trơn vần: an, ăn, ân. Kết hợp với bộ đồ dùng tiếng việt cho học sinh tìm và ghép âm, vần thành tiếng mới trong mỗi bài học. Với cách phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài như thế nếu được sử dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kĩ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy âm vần đều có các từ, các câu thơ câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài GV cho học sinh nắm chắc các vần. Sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của nội dung bài. Với những từ ngữ, đoạn văn trong bài, giáo viên sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú, gợi trí tò mò giúp các em đọc tốt hơn. 2.3.2. Đối với dạng bài văn bản đọc Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh nhận thức chậm và phát âm chưa đúng. Đối với học sinh bình thường và năng khiếu các em chỉ cần nhìn vào bài là đọc được ngay. Còn học sinh nhận thức chậm và phát âm chưa đúng các em đọc còn rất khó khăn. Vì thế đối với học sinh này, tôi hết sức kiên nhẫn, dành nhiều cơ hội tập cho các em, giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trang đọc vẹt, và tính ỷ lại, thụ động của học sinh. Tôi cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ. 1.4 Giải pháp 4: Phương tiện dạy học - Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp HS tích cực tham gia các hoạt động học tập, tôi sử dụng linh hoạt các phương tiện tiết dạy như sau: vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu, sưu tầm thêm một số tranh ảnh có liên quan đến bài dạy, Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử để giảng dạy trong tiết học. - Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh. Và tham khảo thêm tài liệu ở các bộ sách khác. - Tìm thêm một số từ câu có liên quan đến âm vần của bài học cho học sinh luyện đọc ở tiết học tăng cường vào buổi chiều. 1.5 Giải pháp 5:. Phân loại trình độ và sắp xếp chỗ ngồi Ngay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp, tôi tiến hành xếp lại chỗ ngồi cho học sinh. Mỗi tổ xếp xen kẽ những em có nhận thức nhanh, đọc tốt với những em đọc chưa tốt và còn đọc hay sai nhằm thực hiện phương châm: “Học thầy không tày học bạn”. Tôi nhận thấy cách sắp xếp như vậy ngoài các kiến thức cơ bản, hệ thống được học ở giáo viên, các em còn có thể hỗ trợ lẫn nhau trong học tập. Sự hỗ trợ giữa các học sinh giúp các em tự tin vào khả năng của bản thân và tự rút kinh nghiệm về cách học của chính mình. Ngoài ra tư thế ngồi đọc và cách cầm sách cũng rất quan trọng góp phần không nhỏ trong việc rèn luyện kĩ năng đọc đúng. Vì vậy tôi thường xuyên quan tâm uốn nắn tư thế ngồi đọc và cách cầm sách cho các em. 1.6 Giải pháp 6: Về nhận xét, đánh giá Trong mỗi hoạt động của tiết học, giáo viên thay đổi linh hoạt hình thức đánh giá: GV đánh giá học sinh; Học sinh đánh giá học sinh; Học sinh tự đánh giá, nhận xét về bài đọc mình vừa trình bày. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ có tác dụng các em thấy được những việc mình làm được, chưa làm được, những điều mình cần phải học tập bạn để phát huy và khắc phục. Không phê bình học sinh trước tập thể khi các em mắc phải những khuyết điểm như đọc còn sai, ngọng, Tôi đã hướng dẫn các em cách giúp bạn sửa sai. Tôi luôn đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh. Khuyến khích, động viên các em kịp thời trong hoạt động. Những em có khuyết điểm tôi trực tiếp trò chuyện và nhắc nhở, tư vấn giúp đỡ các em, giúp các em ngày càng mạnh dạn, tự tin. 1.7 Giải pháp 7: Phối hợp với gia đình giúp các em tiến bộ trong học tập Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học, giáo viên cần chuẩn bị kĩ lưỡng nội để trao đổi với phụ huynh về Tiếng Việt 1 chương trình mới, để phụ huynh hiểu về chương trình Tiếng Việt 1 và ủng hộ, kết hợp cùng giáo viên. Chỉ ra cho phụ huynh nắm được các điểm mới trong chương trình Tiếng Việt 1.Thống nhất với phụ huynh cách dạy con ở nhà, cũng như các quy định chung của lớp. Động viên phụ huynh thường xuyên khuyến khích con tự học. Cần kiên nhẫn, không nóng giận và không tạo áp lực cho trẻ về thành tích. Lập nhóm zalo của lớp để trao đổi về kết quả học tập của học sinh. Cũng có thể sử dụng để giao bài tập về nhà hoặc giáo viên có thể dễ dàng gửi các video, hình ảnh bài học giúp phụ huynh hướng dẫn con học bài ở nhà (do nghỉ dịch covid học sinh phải học oline). Ngoài ra giáo viên hướng dẫn thêm cho học sinh đọc bài trực tiếp qua zalo để cô kết hợp sửa lỗi. Nhờ có sự gắn kết của giáo viên và phụ huynh qua phần mềm zalo mà giáo viên kịp thời nắm bắt được tình hình học tập của từng học sinh. Để từ đó có những điều chỉnh phù hợp, chất lượng giáo dục của lớp cũng được nâng lên rõ rệt. 3.Giải pháp mới mang tính mới, tính sáng tạo + Việc tăng cường tổ chức cho học sinh năng khiếu tham gia câu lạc bộ em yêu Tiếng Việt tham gia luyện thi, thi các cấp về Trạng nguyên Tiếng Việt, trạng nguyên toàn tài (Vào tiết 4 buổi 2) tạo cơ hội cho các em được trải nghiệm, được phát triển sở trường và rèn luyện kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh. + Việc tạo cơ hội cho học sinh nhận thức chậm luyện đọc mọi lúc, mọi nơi khi học sinh hứng thú giúp các em tiến bộ một cách tự nhiên, không hề cảm thấy gò ép. + Việc lập quỹ khuyến học của lớp tặng học sinh năng khiếu và học sinh có tiến bộ trong môn Tiếng Việt giúp học sinh phần khởi tiếp tục cố gắng trong học tập. Ngoài ra còn tuyên dương các em bằng thư khen, tick khen thưởng hàng tuần, hàng tháng. + Việc tổ chức trò chơi trong tiết học Tiếng việt giúp các em hứng thú khi học môn này. + Trong các tiết học hoạt động trải nghiệm tôi đã lồng ghép các em thi đọc thơ, văn, kể chuyện,... đồng thời kích thích tính tò mò của các em qua tranh, ảnh, biển hiệu nơi công cộng. III. Hiệu quả đạt được 1. Hiệu quả thực tế giảng dạy Tôi thu được kết quả như sau: TS HS Thời điểm Số học sinh đạt yêu cầu Số học sinh chưa đạt yêu cầu SL % SL % 35 Tuần 10 26 74,3 9 25,7 35 Tuần 30 35 100 Sáng kiến này tuy không thể kiểm đếm được bằng tiền nhưng nó mang lại nhiều hiệu quả to lớn: + Đảm bảo thời gian của từng tiết học Tiếng Việt 1 theo đúng quy định. + Giúp học sinh bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. + Đa số học sinh tích cực, mạnh dạn, tự tin trong học tập, biết hợp tác và chia sẻ. + 100% học sinh yêu thích môn học Tiếng Việt và các môn học khác. 2. Hiệu quả về nhận thức xã hội - Góp phần cải thiện điều kiện dạy học, nâng cao chất lượng đọc. Nhờ áp dụng giải pháp trên, cuối năm học tỷ lệ học sinh đọc đúng, hoàn thành nội dung học tập môn Tiếng Việt tăng rõ rệt. - Kết quả năm học 2021 – 2022, lớp tôi số HS hoàn thành tốt môn Tiếng Việt 20/35 em, đạt: 57,1%, số HS hoàn thành môn Tiếng Việt 15/35 em, đạt: 42,9%. - Số học sinh đạt giải tăng cao. + Cuộc thi Trạng nguyên Tiếng việt cấp Tỉnh đạt : 1 giải Ba. + Cuộc thi Trạng nguyên Toàn tài cấp Tỉnh đạt 1 Giải Nhì.- Mang ý nghĩa giáo dục lớn, giáo dục tình yêu Tiếng Việt, góp phần lôi cuốn lòng ham đọc sách ở học sinh. Khi áp dụng giải pháp mới, học sinh có ý thức học bài hơn, ham đọc sách, tìm tòi thêm những quyển sách hay để đọc. Học sinh của lớp hầu như lúc nào cũng mong chờ đến giờ Tập đọc để được tham gia đọc cùng các bạn, Đặc biệt, học sinh tích cực và mạnh dạn hơn trong việc thể hiện đọc trước bạn, trước lớp. IV. Điều kiện và khả năng áp dụng 1. Điều kiện áp dụng Cán bộ quản lí cần quan tâm, tạo điều kiện tư vấn giúp đỡ GV khi gặp khó khăn trong việc dạy học. Nhà trường kết hợp cùng các ban ngành tu bổ, xây dựng cơ sở vật chất trường học, có đủ đồ dùng dạy học, máy tính, máy chiếu đa năng, ti vi... Mỗi giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 cần luôn nhiệt tình, trách nhiệm, kiên trì luôn tôn trọng, yêu thương học sinh, tin tưởng vào sự tiến bộ của các em khi thực hiện việc rèn kỹ năng đọc đúng này. Học sinh cần tích cực, tự giác, tự tin, tự chủ học tập để đạt kết quả tốt. Cha mẹ HS cần quan tâm, tạo mọi điều kiện để các em có đủ sách giáo khoa, vở bài tập, vở ghi, đồ dùng học tập và hướng dẫn các em học ở nhà, tạo thói quen trao đổi với cô giáo trên zalo nhóm lớp. 2. Khả năng áp dụng Biện pháp này đã có tính khả thi tại trường tiểu học Đông Sơn và có thể áp dụng trong tất cả các trường Tiểu học nói chung. V. Cam kết Tôi cam kết biện pháp này lần đầu được dùng để đăng ký tham dự Hội thi. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để các biện pháp giáo dục trên được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! - Danh sách những người đã tham gia áp dụng sáng kiến: Số TT Họ và tên Năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ 1 Trương Thị Chinh 1992 Trường TH Đông Sơn Giáo viên ĐHSP Tác giả thực hiện chính 2 Ninh Thị Dần 1975 Trường TH Đông Sơn Giáo viên ĐHSP Góp ý, xây dựng, tìm tư liệu Tam Điệp, ngày 5 tháng 4 năm 2023 NGƯỜI NỘP ĐƠN (Tác giả sáng kiến ký, ghi rõ họ tên) Trương Thị Chinh
File đính kèm:
don_cong_nhan_skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_doc.docx