Báo cáo SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 3

Biện pháp thứ nhất: Dạy học “tích hợp - lồng ghép” kiến thức ở các phân môn khác khi dạy phân môn tập làm văn.

Ở lớp 3 mỗi một chủ điểm đều được học trong 2 tuần và có từ 1-2 tiết Tập làm văn là rèn kĩ năng nói - viết về một đề bài theo chủ điểm được học. Vì vậy, dạy Tập làm văn không được tách rời kiến thức với các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện có trong chủ điểm đó. Thông qua kiến thức của bài Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu… giáo viên cần dạy cho học sinh biết cách tích lũy vốn kiến thức, vốn từ ngữ, vốn hiểu biết, để vận dụng vào các bài Tập làm văn. Có thể nói mỗi bài Tập làm văn của một chủ điểm là tổng hợp hệ thống kiến thức của các phân môn từ: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, của môn Tiếng Việt trong chủ điểm đó.

Ví dụ : Ở tuần 22 – chủ điểm Sáng tạo, tiết Tập làm văn có bài tập :

Bài 1 : Hãy kể về một người lao động trí óc mà em biết.

- Tôi đã định hướng cho học sinh ngay khi dạy bài Tập đọc trong chủ điểm sáng tạo đó là bài: “Nhà bác học và bà cụ” để học sinh hiểu được nhà bác học Ê – đi – xơn là một nhà bác học đại tài, ông là người nghiên cứu và phát minh ra rất nhiều công trình khoa học vĩ đại cho nhân loại, là người có tấm lòng yêu thương mọi người và luôn mong muốn mang đến những điều tốt nhất cho con người.

-Tôi đưa ra câu hỏi cho học sinh: Nhà bác học Ê- đi- xơn hoạt động trong lĩnh vực gì và công việc của ông thế nào? Học sinh dựa vào nội dung của bài tập đọc để trả lời câu hỏi. Sau đó tôi sẽ chốt lại nội dung cụ thể để học sinh nắm được.

- Không chỉ có vậy, ngay trong tiết Luyện từ và câu tôi cũng đã giúp học sinh hệ thống được các từ ngữ nói về chủ điểm “Sáng tạo” như những từ ngữ chỉ trí thức: bác sĩ, dược sĩ, nhà văn, nhà bác học,…và từ ngữ chỉ hoạt động của trí thức: nghiên cứu, chế tạo thuốc, khám bệnh,…mà các em có thể định hướng và vận dụng vốn từ ngữ vào nói, viết bài tập làm văn.

pptx 19 trang Thu Nga 18/05/2025 190
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 3

Báo cáo SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 3
p học sinh có hứng thú học tập, mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn, từ đó phát huy hết khả năng tư duy ngôn ngữ của học sinh. 
Lí do hình thành biện pháp 
*Biện pháp thứ nhất: Dạy học “tích hợp - lồng ghép” kiến thức ở các phân môn khác khi dạy phân môn tập làm văn. 
	 Ở lớp 3 mỗi một chủ điểm đều được học trong 2 tuần và có từ 1-2 tiết Tập làm văn là rèn kĩ năng nói - viết về một đề bài theo chủ điểm được học. Vì vậy, dạy Tập làm văn không được tách rời kiến thức với các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện có trong chủ điểm đó. Thông qua kiến thức của bài Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu giáo viên cần dạy cho học sinh biết cách tích lũy vốn kiến thức, vốn từ ngữ, vốn hiểu biết, để vận dụng vào các bài Tập làm văn. Có thể nói mỗi bài Tập làm văn của một chủ điểm là tổng hợp hệ thống kiến thức của các phân môn từ: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, của môn Tiếng Việt trong chủ điểm đó . 
Ví dụ  : Ở tuần 22 – chủ điểm  Sáng tạo , tiết Tập làm văn có bài tập  : 
Bài 1 : Hãy kể về một người lao động trí óc mà em biết. 
- Tôi đã định hướng cho học sinh ngay khi dạy bài Tập đọc trong chủ điểm sáng tạo đó là bài: “ Nhà bác học và bà cụ ” để học sinh hiểu được nhà bác học Ê – đi – xơn là một nhà bác học đại tài, ông là người nghiên cứu và phát minh ra rất nhiều công trình khoa học vĩ đại cho nhân loại, là người có tấm lòng yêu thương mọi người và luôn mong muốn mang đến những điều tốt nhất cho con người. 
- Tôi đưa ra câu hỏi cho học sinh: Nhà bác học Ê- đi- xơn hoạt động trong lĩnh vực gì và công việc của ông thế nào? Học sinh dựa vào nội dung của bài tập đọc để trả lời câu hỏi. Sau đó tôi sẽ chốt lại nội dung cụ thể để học sinh nắm được. 
- Không chỉ có vậy, ngay trong tiết Luyện từ và câu tôi cũng đã giúp học sinh hệ thống được các từ ngữ nói về chủ điểm  “Sáng tạo”  như những từ ngữ chỉ trí thức: bác sĩ, dược sĩ, nhà văn, nhà bác học,và từ ngữ chỉ hoạt động của trí thức: nghiên cứu, chế tạo thuốc, khám bệnh,mà các em có thể định hướng và vận dụng vốn từ ngữ vào nói, viết bài tập làm văn. 
a) Xác định rõ yêu cầu các bài tập. 
- Ở mỗi đề bài Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập.Việc nắm vững yêu cầu giúp học sinh khi thực hành đi đúng hướng, không bị lạc đề. Bên cạnh việc nắm vững yêu cầu, giáo viên còn cần giúp học sinh nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý. 
Biện pháp thứ hai : : Hướng dẫn tìm hiểu nội dung đề bài : 
Ví dụ:  Tuần 26:“Kể về một ngày hội mà em biết”  tôi cho học sinh xác định rõ yêu cầu của đề bài là kể về ngày hội. Sau đó tôi định hướng cho học sinh tìm hiểu các câu hỏi gợi ý bằng cách hỏi học sinh: 
- Con định kể về hội gì? 
- Hội đó được tổ chức ở đâu? Vào dịp nào? 
- Con được đi xem hội với ai? 
- Không khí chuẩn bị của hội thế nào? 
- Mọi người đi xem hội thế nào? ví dụ như : Quần áo, nét mặt, biểu cảmkhi đi xem hội. 
- Hội có những hoạt động gì? 
- Có những trò chơi nào được tổ chức? ví dụ như: chơi cờ người, đấu vật, kéo co, nhảy múa, hát quan họ 
- Cảm nghĩ của con sau khi được xem hội thế nào? 
Biện pháp thứ hai : : Hướng dẫn tìm hiểu nội dung đề bài : 
b) Nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý : 
Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. 
+ Tìm hiểu các câu gợi ý: 
Trước khi học sinh thực hành bài tập luyện nói, giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từ địa phương. Nếu là từ địa phương, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng từ địa phương mình để học sinh làm bài dễ dàng hơn. 
+ Chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ: 
Trong các câu gợi ý có một số câu dài hoặc ngắn gọn khiến học sinh lúng túng khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo. Giáo viên cần chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý tưởng phong phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót cho học sinh. 
c ) Hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn: 
+ Hướng dẫn học sinh biết hồi tưởng: 
- Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việc mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ,hình ảnh thực tế có liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp với thực tế và trình độ học sinh để các em dễ dàng diễn đạt được đúng yêu cầu của đề tài. 
- Ví dụ: Ở tuần 22 bài “Kể về một người lao động trí óc”, giáo viên gợi ý người đó làm nghề gì? Bao nhiêu tuổi? Công việc em thường thấy là gì? 
+ Hướng dẫn học sinh tưởng tượng, liên tưởng dựa trên kết quả đã quan sát: 
- Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo. 
Biện pháp thứ hai : : Hướng dẫn tìm hiểu nội dung đề bài : 
*Biện pháp thứ ba: Rèn kĩ năng diễn đạt khi nói và viết cho học sinh . 
a) Rèn kĩ năng nói cho học sinh 
 Bước 1 
Nói dưới hình thức trả lời theo các câu hỏi gợi ý (dành cho những học sinh có nhận thức chậm ) 
 Bước 3 
Nói thành bài văn (dành cho học sinh có năng khiếu môn học) 
 Bước 2 
 Nói gộp từ 2 – 3 câu hỏi một lúc, có liên kết các câu với nhau (dành cho học sinh đã hiểu và biết vận dụng) 
b) Rèn kĩ năng viết cho học sinh 
Nội dung bài viết phải đúng chủ đề, cách dùng từ ngữ, viết câu chính xác, các ý diễn đạt có thứ tự hợp lý , mỗi câu văn cần phải rõ ý, đủ thành phần chính của câu. 
K hi viết cũng cần chú ý tới hình thức trình bày, nhắc nhở học sinh về chữ viết, lỗi chính tả 
 K huyến khích, động viên, ghi nhận những học sinh có ý tưởng hay, bài viết sáng tạo để khen ngợi và nhân rộng đối với học sinh khác . 
a) Dạng bài: Nghe – kể lại chuyện . 
 Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. 
 Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung chuyện. 
Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể) 
Cách 1 
 Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần. 
Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã đươc ghi trên lớp (cho học sinh làm vào phiếu học tập). 
Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong chuyện hay ý nghĩa của chuyện. 
Biện pháp thứ tư : Hướng dẫn học dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” và dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề” . 
 Học sinh kể lại chuyện theo cặp (theo nhóm) 
* Ví dụ: Nghe kể lại câu chuyện: Dại gì mà đổi (BT1-TV3 - tập 1- tr36) 
1.Chuẩn bị. 
- Tranh vẽ ở SGK phóng to 
- Phiếu bài tập: Em hãy xem tranh và đoán thử xem nội dung chuyện theo bảng sau và điều chỉnh lại khi nghe chuyện. 
Câu hỏi gợi ý 
a . Thử đoán nội dung 
b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể 
Câu chuyện có mấy nhân vật 
..................................... 
..................................... 
Họ đang làm gì? 
........................................ 
....................................... 
...................................... 
....................................... 
Người mẹ đã nói với con điều gì? người con trả lời mẹ ra sao? 
...................................... 
..................................... 
..................................... 
..................................... 
 Kết quả câu chuyện như thế nào? 
...................................... 
...................................... 
..................................... 
...................................... 
2. Cách tiến hành: 
 - Giáo viên treo tranh vẽ trên bảng, chia nhóm học sinh và phát phiếu học tập cho các nhóm, cho học sinh đọc yêu cầu của bài tập ghi trên phiếu và tiến hành làm bài tập a. 
- Giáo viên theo dõi và gọi đại diện các nhóm nêu một số ý và giáo viên ghi lên bảng. 
- Giáo viên kể chuyện 2 lần (nội dung chuyện có trong SGV) học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh ở phần b của bài tập . 
- Giáo viên bao quát lớp, kèm cặp thêm cho học sinh có nhận thức chậm 
- Cho học sinh trao đổi về một điều thú vị trong truyện hay nêu ý nghĩa chuyện: câu chuyện buồn cười ở chỗ nào? (Chuyện buồn cười vì cậu bé nghịch ngợm mới 4 tuổi cũng biết rằng không ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm.) Giáo viên chốt lại nội dung: Không ai dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm cả. 
- Cho học sinh kể lại chuyện theo nhóm. 
- Đại diện nhóm kể lại trước lớp. Học sinh nhận xét bổ sung, giáo viên nhận xét chung. 
a) Dạng bài: Nghe – kể lại chuyện . 
Giáo viên kể chuyện lần 1 kết hợp hướng dẫn học sinh nắm các nhân vật có trong truyện . 
Học sinh trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, giáo viên bổ sung nhận xét chung. 
Cách 2 
Giáo viên kể lần 2, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong các khung còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu (có thể cho học sinh làm việc theo nhóm hay theo cặp đôi) có thể đánh số hay vẽ mũi tên. 
Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm (hay cặp). 
Biện pháp thứ năm : Hướng dẫn học dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” và dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề” . 
 Đại diện nhóm kể lại trước lớp 
* Ví dụ minh hoạ : Nghe - kể lại chuyện: Không nỡ nhìn.(BT1- SGKTV – Tập 1)1. Chuẩn bị : - Tranh vẻ ở sách giáo khoa phóng to - Phiếu học tập: Sơ đồ trình tự câu chuyện 2. Cách tiến hành :- Giáo viên kể chuyện lần1 và hỏi học sinh: Câu chuyện có mấy nhân vật? ở đâu? học sinh sẽ trả lời:+ Câu chuyện có hai nhân vật + Chuyện xảy ra trên chuyến xe buýt.- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong khung còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập.(Học sinh hoạt động theo nhóm 4 )   
- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm. 
- Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp. 
- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung. 
- Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của chuyện: Anh thanh niên trên chuyến xe buýt không biết nhường chổ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và giải thích rất buồn cười là không nở nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng. 
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì? 
- Giáo viên nhận xét chung . 
b ) Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề . 	 Theo tôi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trên trong sách giáo viên .Giáo viên có thể sử dụng bản đồ tư duy . *Ví dụ khi dạy đề bài : Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92), ) Tôi thực hiện như sau: - Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Nói về quê hương em.- Học sinh tập trung động não nghĩ về quê hương mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến quê hương.- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữ liên quan đến quê hương. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.   
- Học sinh ghi vào giấy nháp về quê hương mình 
- Giáo viên gọi một vài em kể về quê hương mình cho cả lớp nghe. 
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung. 
	Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu( các từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói về quê hương dễ dàng hơn. 
Biện pháp thứ năm : Phối kết hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường. 
+) Đối với công tác Đội của nhà trường: 
- Giáo viên tổng phụ trách sẽ tổ chức cho học sinh tham gia các tiết hoạt động tập thể theo các chủ đề như: tìm hiểu về các lễ hội và hoạt động có trong lễ hội; Các buổi biểu diễn văn nghệ chào mừng các ngày lễ như: ngày khai giảng, ngày 20/11, ngày 8/3,....Tất cả những hoạt động trong tiết hoạt động tập thể mà các em được quan sát,tìm hiểu thực tế cuộc sống sẽ là tư liệu để học sinh có thể vận dụng vào viết bài văn theo đề bài như: Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật mà em được xem, Kể về một ngày hội mà em biết,... 
+) Với môn Thể dục : 
- Giáo viên bộ môn sẽ cho học sinh được học hỏi, quan sát và tham gia thi đấu các môn thể thao như: bóng bàn, võ thuật, nhảy dây, bóng rổ, bóng đá,...để từ đó hình thành cho học sinh có sự hiểu biết về các môn thể thao và biết vận dụng linh hoạt vào viết bài văn theo đề bài: Viết về một trận thi đấu thể thao. Chính nhờ sự quan sát thực tế một trận thi đấu thể thao qua tiết thể dục thì học sinh mới có thể viết được linh hoạt về một trận thi đấu thể thao mà mình đã được xem. 
V . KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: 
     - Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài và vận dụng các biện pháp mới trong việc dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 3B của tôi và phổ biến cùng các đồng nghiệp thực hiện trong toàn khối, chúng tôi nhận được kết quả rất khả quan. Qua các tiết dự giờ của đồng nghiệp trong khối dạy về Tập làm văn, tôi thấy khả năng nói của các em tiến bộ vượt trội. Nhiều em giơ tay xin được nói trước lớp, kĩ năng diễn đạt cũng tốt hơn, lỗi về từ, câu không nhiều, các em cũng rất mạnh dạn khi nhận xét và chỉ ra lỗi sai của bạn. Qua các đợt kiểm tra viết, bài viết của các em có chất lượng cao hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh. Bản thân tôi không thấy mệt, căng thẳng khi dạy tiết tập làm văn nói - viết cho học sinh. 
 * Kết quả thu được của lớp tôi đễn cuối học kì I như sau: 
I V : Kết luận của biện pháp 
*Kết luận chung . 
- Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 nói riêng, việc tìm hiểu những khó khăn của học sinh và tìm ra được hướng khắc phục những vướng mắc khi lĩnh hội kiến thức mới cho các em là một điều không thể thiếu đối với người giáo viên, đặc biệt là dạy phân môn Tập làm văn. Việc sử dụng và hướng dẫn cụ thể thêm những cách viết đoạn văn ngắn trên đã giúp cho học sinh dễ dàng sáng tạo, diễn đạt ý của mình. Hãy hướng dẫn các em học Tập làm văn đúng với tên gọi của phân môn này là “Tập” cho các em làm văn . 
* Đễ xuất, kiến nghị 
+ Đối với giáo viên 
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, phương pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. 
+ Đối với tổ chuyên môn của nhà trường 
- Tổ chức các chuyên đề Tập làm văn theo từng chủ đề cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. 
+ Đối với phòng giáo dục 
- M ở thêm các lớp bồi dưỡng về chuyên môn để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi với các bạn đồng nghiệp về phương pháp giảng dạy cũng như giáo dục học sinh. 
Chúc các thầy cô giáo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công 

File đính kèm:

  • pptxbao_cao_skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_phan.pptx