Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 2

Phần luyện đọc nhiều giáo viên cho là dễ, nhưng thực chất đây là phần khó nhất, phần trọng tâm của bài giảng ở khâu này, giáo viên ít mắc lỗi về thao tác kỹ thuật nhưng lại không biết dạy như thế nào để phát hiy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, chưa chú ý đến tốc độ đọc của các em theo yêu cầu về kiến thức và kỹ năng cơ bản phù hợp đến từng khối lớp.

Một hạn chế rất phổ biến ở giáo viên khi dạy Tập đọc là không phân biệt được sự khác nhau giữa tiết Tập đọc và tiết Tập đọc học thuộc lòng. Nhiều giáo viên chỉ thấy sự khác nhau giữa các lớp đầu cấp khi cho học sinh đọc đồng thanh mà quên rằng nhiệm vụ chủ yếu trong tiết Tập đọc là đọc cá nhân, còn nhiệm vụ chủ yếu của tiết Tập đọc học thuộc lòng là vừa phải luyện đọc, vừa kết hopwh rèn trí nhớ, ít chú ý đến đối tượng học sinh yếu nhiều giáo viên cố tình “bỏ quên” đối tượng này, coi như không có các em trong lớp.

Có một số giáo viên tuổi cao, mặc dù có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, nhưng do phương pháp dạy học truyền thống đó tiềm tàng, khả năng nắm bắt phương pháp mới cũng hạn chế. Các bước lên lớp chưa linh hoạt. Vì vậy tiết Tập đọc còn buồn tẻ, đơn điệu. Các em học vẹt. Khâu thực hành còn yếu, nhất là khâu luyện đọc, đặc biệt là rèn đọc diễn cảm cho học sinh.

Từ thực trạng trên, để hoàn thành ý tưởng, đề ra các giải pháp rèn đọc cho học sinh khối 2 của trường Tiểu học Văn Tiến, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng phân môn này, lấy lớp trung tâm nghiên cứu đó là lớp 2A1

docx 8 trang Thu Nga 06/09/2025 70
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 2

Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 2
ến cả quá trình luyện đọc của giáo viên.
Nhằm nâng cao chất lượng các tiết Tập đọc nói riêng và chất lượng đọc của học sinh nói chung,  chúng tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp để rèn cho học sinh đọc rõ ràng, lưu loát, đúng tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ (đọc đúng).
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2
Đọc là phân môn chủ yếu rèn đọc cho học sinh, từ mức độ nhận biết để đọc đúng, đọc rõ ràng, đọc to, mức độ đọc cao hơn là đọc lưu loát, biết ngắt nghỉ lên xuống giọng và thể hiện thái độ tình cảm qua bài tập đọc, từ đó học sinh hiểu nội dung của bài.
Để đạt được mục đích trên trước hết người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng bằng nhiều hình thức rèn đọc, trên cơ sở giúp học sinh nhận thức được việc rèn đọc trong trường tiểu học là một vấn đề rất quan trọng.
 Biện pháp 1. Tạo tâm thế vui vẻ thoải mái cho học sinh
Việc tạo được tâm thế cho học sinh trong các buổi học là vô cùng cần thiết. Bởi khi các em có một tâm thế vui vẻ, thoải mái thì tiết học sẽ diễn ra nhẹ nhàng và đạt hiệu quả hơn. Hiểu điều đó nên mỗi khi bước vào lớp trước khi vào bài học, giáo viên không nặng lời trách phạt bất cứ một học sinh nào mà thay vào đó tôi thường bắt đầu bằng một câu chào, sau lời chào là một vài cử chỉ ân cần để cho học sinh cảm nhận được sự gần gũi,dù hôm đó sinh sinh có thể chưa chuẩn bị bài khi đến lớp.  Bởi tôi nghĩ, nếu nặng lời mắng mỏ sẽ đem lại cho học sinh đó nỗi buồn, cảm giác có tội sẽ đè nặng, phá tan sự tiếp thu của học sinh trong cả buổi học hôm ấy. 
 Biện pháp 2: Giáo viên đọc mẫu 
            Giáo viên đọc mẫu một cách chuẩn xác, phù hợp với từng văn bản. Biết hướng dẫn học sinh về cách đọc; sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động rèn kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài, tham gia các trò chơi luyện đọc, ...) phát triển kĩ năng đọc cho học sinh.
            Tôi luôn chú trọng cách đọc mẫu làm thế nào cho hấp dẫn, lôi cuốn được các em bắt chước cách đọc diễn cảm.
 Ví dụ : Bài thơ: “ Cái trống trường em ''
            +  Giáo viên đọc mẫu với giọng vui tươi, khỏe khoắn, thể hiện tình cảm của các bạn học sinh với cái trống trường.
+ Đọc câu: Buồn không hả trống (với giọng thân mật, thiết tha)
+ Đọc câu: Nó mừng vui quá! ( với giọng mừng rỡ, phấn khởi)
+ Đọc câu: Tùng! Tùng!Tùng! Tùng! theo đúng nhịp trống
             Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ.
Ví dụ : Bài thơ : '' Cái trống trường em” Giáo viên hướng dẫn ngắt nhịp 2/2, 1/3
                                                  Cái trống/ trường em ( 2/2)
                                                  Mùa hè/ cũng nghỉ
                                                  Suốt /ba tháng liền ( 1/3)
                                                  Trống nằm / ngẫm nghĩ.
                                               Tùng!// Tùng!// Tùng! //Tùng!//
            Bài thơ “Cái trống trường em” thuộc thể thơ 4 chữ, thể hiện tình bạn thân thiết, gắn bó của bạn học sinh với trống trường. Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn. Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được không khí trong lớp học thoải mái để học sinh có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đó các em học tập và bắt chước thầy.
Biện pháp 3: Luyện phát âm đúng.
            Yêu cầu đầu tiên đối với khả năng đọc chính xác. Luyện đọc chính xác thực chất là rèn luyện ngữ âm cho học sinh.
            Thống kê lỗi phát âm ở lớp mà các em hay sai, tôi qui về 2 loại sau đây: 
            + Sai phụ âm đầu : ch/tr , s/x , l/n.
            + Sai dấu thanh : dấu ngã đọc thành dấu sắc, dấu hỏi đọc thành dấu sắc .
            Ví dụ : " ngẫm nghĩ'' đọc là ''ngấm nghí '', ...
            Để dạy cho học sinh phát âm đúng, tôi không quên rèn kĩ năng nghe. Ở đây vai trò giọng đọc của giáo viên rất quan trọng. Giữa nghe và phát âm có mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng nghe cũng hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng đọc.
            Lỗi mà học sinh còn phát âm sai do 2 nguyên nhân : 
            + Nguyên nhân chủ quan : như nói lắp, nói ngắn lưỡi, khó đọc do tật bẩm sinh .
            Ví dụ : s / x : suốt / xuốt, nó / ló, trong/chong
            + Nguyên nhân khách quan: do cách phát âm sai của phương ngữ tạo cho các em thói quen nghe và nói từ khi nhớ (l/n)
            Để chữa lỗi phát âm sai tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ âm và ý nghĩa từ. Cho học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần.
            Ví dụ : phát âm s / x :
            + Khi phát âm s ( sờ ) : phải uốn lưỡi , hơi thoát ra chân răng đầu lưỡi.
            + Khi phát âm x ( xờ) : hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng .
            Ví dụ: phát âm tr / ch :
            + '' trống/ chống '' phân biệt với '' trống trường '',''  chống nắng ''
Biện pháp 4: Luyện đọc tốc độ, giọng đọc
4.1. Luyện đọc đúng tốc độ
Hướng dẫn học sinh đọc giữ tốc độ không đọc ê a, không đọc quá nhanh hoặc quá nhỏ, giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng việc giữ nhịp đọc. Để điều chỉnh tốc độ bằng cách trước khi dạy, giáo viên đếm trong bài có bao nhiêu tiếng rồi dự kiến bao nhiêu phút. 
Phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rèn các kỹ năng: đọc, nghe, nói. Trọng tâm là kỹ năng đọc. Để hình thành và phát triển tốt các kỹ năng này cho học sinh, giáo viên cần tổ chức các hoạt động trên lớp sao cho tất cả các học sinh đều được đọc, nếu như em đọc tốt rồi thì hướng dẫn các em đọc hay hơn, trả lời những câu hỏi khó hơn. Còn các em đọc chậm, nhỏ thì yêu cầu các em đọc tăng dần tốc độ và đọc to dần. Yêu cầu học sinh học cách đọc của giáo viên và những em đọc tốt. Những em đọc yếu thực sự thì giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đúng các từ khó, đọc đúng từng câu sau đó đọc từng đoạn. Tuyên dương kịp thời những em đọc tốt và những em có nhiều tiến bộ. 
4.2. Luyện đọc thầm
Trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chưa chú ý đúng mức luyện đọc thầm cho học sinh. Đọc thầm thực sự có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng. Dạy đọc thầm chính là dạy cho học sinh đọc có ý thức. Kết quả của việc đọc thầm là giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, cả bài (nghĩa là giúp các em cảm nhận, hiểu toàn bộ những gì các em được đọc).
Để hướng dẫn học sinh đọc thầm đạt kết quả, khi dạy yêu cầu học sinh tập chung vào bài, đọc thầm kết hợp với việc tham gia đặt câu hỏi nhận biết nhiệm vụ học tập hoặc kiểm tra đọc thầm bằng cách  hỏi học sinh đó đọc đến đâu và định hướng nội dung cần tìm. Có như vậy các em mới chú ý và tập chung trong khi đọc thầm và kích thích tinh thần học tập của học sinh.
Học sinh đọc thầm có thể dưới nhiều hình thứcvà đọc thầm có định hướng sau:
VD:  Đọc thầm để phát hiện:
+ Tự phát hiện tiếng, từ phải tìm dễ lẫn?
+ Tìm những từ ngữ  cần nhấn giọng, hạ giọng, lên giọng, chỗ ngắt, nghỉ hơi. 
+ Trong bài có những nhân vật nào? Ai đang trò chuyện?
+ Phát hiện giọng đọc của đoạn, bài, từng nhân vật?
Khi dạy bài  “Cái trống trường em”, khi các em đọc thầm, các em có thể cảm nhận được nội dung bài, thông qua đọc các em hiểu được tình bạn thật thân thiết, gắn bó của bạn học sinh đối với trống trường. Các em sẽ nói lên được cảm xúc của bản thân khi đọc bài thơ.
4.3. Luyện đọc hay
Sau khi luyện đọc từ, câu, đoạn, bài và đọc đúng tốc độ giáo viên hướng dẫn giọng đọc câu, đoạn, bài để học sinh đọc hay và cảm nhận nội dung tốt hơn.
Ví dụ: Bài thơ: '' Cái trống trường em '' Giáo viên hướng dẫn ngắt dòng thơ
               Cái trống trường em/                           Buồn không hả trống/
               Mùa hè cũng nghỉ/                               Trong những ngày hè/
               Suốt ba tháng liền /                               Bọn mình đi vắng/
              Trống nằm ngẫm nghĩ.//                        Chỉ còn tiếng ve.//
Khi đã đọc được bài thì giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài. Giáo viên sử dụng phương pháp phân tích mẫu, sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phân tích các vật liệu mẫu để hình thành các kiến thức văn học, các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Để học sinh phân tích dễ dàng giáo viên có thể tách câu hỏi trong sách giáo khoa thành nhiều câu hỏi nhỏ để học sinh dễ hiểu hơn. 
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài “ Cái trống trường em” Với câu hỏi:Tiếng trống báo hiệu cho em biết điều gì? Giáo viên có thể chia thành ba câu hỏi nhỏ để dẫn học sinh nhận thức chậm:  
- Em thấy tiếng trống trường vào khi nào?
- Em cảm thấy thế nào khi nghe tiếng trống đó?
 Khi dạy các bài có tranh, giáo viên sử dụng phương pháp trực quan là cho học sinh quan sát tranh minh họa các bài tập đọc ở sách giáo khoa để giúp các em dễ hiểu và biết thêm một số hình ảnh, chi tiết, nhân vật ở trong bài.
Biện pháp 5. Dạy đọc theo nhóm đối tượng học sinh
Với yêu cầu của phần đọc văn bản, ngay từ đầu năm học chúng tôi thường tổ chức các phương pháp , hình thức luyện đọc theo nhóm, phân hóa theo từng đối tượng học sinh để giúp học sinh có thể rèn luyện thêm kĩ năng đọc thành tiếng tốt hơn. Vì vậy chúng tôi tìm hiểu năng lực của từng học sinh, phân loại học sinh trong lớp thành các nhóm đối tượng:
          Nhóm 1: Gồm những học sinh đọc chậm, đọc yếu
          Nhóm 2: Gồm những học sinh đọc trơn được thành tiếng nhưng đọc còn ngập ngừng
          Nhóm 3: Gồm những học sinh đọc tốt: Đọc to, rõ ràng. Bước dầu biết phân biệt lời nhân vật trong đối thoại
Sau khi xác định được nhóm đối tượng học sinh, chúng tôi sắp xếp chỗ ngồi cho các em theo nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm với 4 mức độ kiến thức khác nhau trong cùng một nội dung học. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thường xuyên sắp xếp, thay đổi vị trí của các nhóm, các đối tượng học sinh để đảm bảo trong một nhóm đều có các đối tượng học sinh để các em biết quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình luyện đọc.
Nhưng cũng có những lúc chúng tôi thay đổi hình thức nhóm một cách linh hoạt, để những học sinh đọc tốt ngồi với nhau để các em thi đua và phát huy được khả năng đọc của các em.
Biện pháp 6: Hình thức, pháp dạy học tích cực rèn kĩ năng đọc cho học sinh
a. Phương pháp trực quan
      Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý, lứa tuổi học sinh. Trực quan bằng giọng đọc của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên là hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả cao, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Mỗi bài văn, bài thơ viết ở thể loại khác nhau. Có bài giọng đọc náo nức, phấn khởi; có bài giọng đọc trang nghiêm trầm lắng; có bài giọng đọc ân cần khuyên nhủ, nghĩa là mỗi bài một vẻ. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại ngữ điệu, tránh đọc đều đều, không cảm xúc kết hợp biểu hiện tình cảm, qua ánh mắt, nét mặt, nụ cười. Khi giới thiệu bài nên dùng  trực quan bằng tranh ảnh, vật thật giúp các em háo hức tìm hiểu và cảm thụ bài đọc. Trực quan bằng một đoạn văn chép sẵn được ngắt theo cụm từ  để các em đọc ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ. Có thể trực quan bằng cách nghe giọng đọc hay của học sinh trong lớp.
VD: Bài “ Cái trống trường em” giáo viên phải phóng to tranh vẽ trong SGK về hình ảnh cái trống trường và các bạn học sinh đưa lên cho học sinh quan sát.
b. Phương pháp đàm thoại
     Phương pháp này phù hợp với tâm lí trẻ nhỏ. Các em thích hoạt động ( hoạt động lời nói) giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài để học sinh trả lời tìm ra cái hay của tác phẩm. Muốn đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm trước tiên phải đọc tốt (đọc lưu loát, rõ ràng) và cảm thụ tốt bài văn bằng những câu hỏi đàm thoại để hiểu phương pháp luyện đọc. Phương pháp này đựợc dùng chủ yếu trong giờ Tập đọc dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh luyện đọc nhiều lần.
      Phương pháp dùng phiếu bài tập có thể thấy ngay lỗi mà học sinh thường mắc qua việc yêu cầu học sinh đọc đúng một đoạn văn, thơ ngắn với những âm thanh, vần dễ lẫn.
VD: Bài “ Cái trống trường em” giáo viên đưa ra các câu hỏi để học sinh suy nghĩ, thảo luận nhóm, cặp để trả lời theo nội dung bài học.
c. Phương pháp luyện tập:
Đây là phương pháp chủ yếu, thường xuyên sử dụng khi dạy học phân môn Tập đọc, đối với phương pháp này tôi hướng dẫn học sinh luyện tập có ý thức và kiểm tra ngay kết quả luyện tập tại lớp.
+ Luyện đọc đúng là đọc thành tiếng, đọc trôi chảy, lưu loát và rèn cho học sinh biết ngắt nghỉ đúng chỗ, biết phân biệt câu thơ, dòng thơ.
+ Hình thức luyện tập ở nhà giúp học sinh rèn luyện kỹ năng đọc. Đối với những học sinh yếu thì cho học sinh luyện đọc từ, cụm từ. Học sinh trung bình khá luyện đọc trôi chảy, lưu loát cả bài. Học sinh giỏi đọc diễn cảm cả bài. Có kế hoạch giao bài tập cụ thể cho từng em và kiểm tra theo yêu cầu đề giao.
     Tóm lại để giờ học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp trên một cách hợp lý sao cho giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn các em tìm ra cách đọc, luôn lấy học sinh làm trung tâm.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
   I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi nghiên cứu và áp dụng biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 môn Tiếng Việt, chúng tôi  nhận thấy kết quả học tập môn Tiếng Việt của các em lớp 2 do tổ tôi giảng dạy có nhiều chuyển biến, các em đã đọc to và biết đọc thầm, đọc hiểu để trả lời văn bản và đọc mở rộng. Các em đã có sự tiến bộ rõ rệt:
- Đọc đúng các tiếng. Đọc đúng và rõ ràng các đoạn văn, câu chuyện, bài thơ và văn bản thông tin ngắn. Biết ngắt nghỉ hơi ở chỗ có dấu câu, chỗ ngắt nhịp thơ. Biết đọc thầm.
- Bước đầu biết phân biệt lời nhân vật trong đối thoại và lời người kể chuyện để đọc với ngữ điệu phù hợp. Biết nêu và trả lời câu hỏi về một số chi tiết, nội dung trong văn bản.
- Biết liên hệ, so sánh, biết tìm đọc các văn bản liên quan đến nội dung bài học để phát triển khả năng đọc mở rộng.
- Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả.
Tổng số học sinh 35 em qua khảo sát chất lượng môn đọc tôi đã thu được kết quả như sau: 
Tổng số
Đọc ngọng
Đọc sai Phụ âm
Đọc sai dấu
Đọc đúng
Đọc diễn cảm
35
0
1
1
23
10
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để đạt kết quả tốt khi dạy học sinh đọc, đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, yêu nghề, say mê tìm hiểu những phương pháp, giải pháp dạy học mang lại hiệu quả, giúp học sinh tự chiếm lĩnh được kiến thức, giúp các em thực hành những kĩ năng có hiệu quả. Giáo viên là người tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Bên cạnh đó việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục cũng vô cùng quan trọng. Giáo viên phối kết hợp với phụ huynh hàng ngày để rèn ý thức đọc sách cho học sinh. Ban Giám hiệu tổ chức các sân chơi, kì thi như kể chuyện theo sách, thi Trạng nguyên nhỏ tuổi Tiếng Việt,... để tạo phong trào say mê học tập môn Tiếng Việt.
Trên đây là một số giải pháp chúng tôi đã thực hiện trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2. Trong khi viết và áp dụng vào thực tiễn dạy học chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn bè đồng nghiệp góp ý chân thành để chuyên đề và tiết dạy được tốt hơn.        
                                                            Xin trân trọng cảm ơn !      

File đính kèm:

  • docxbao_cao_sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_d.docx