Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng dạy học nhóm trong môn Tiếng Việt Lớp 2 theo mô hình VNEN

Đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp với thực tiễn, yêu cầu cấp bách của xã hội. Trước kia học sinh chỉ là người thụ động trong việc tiếp cận kiến thức trong SGK thì với chương trình VNEN,đã biến người học chủ động, tích cực tự tìm hiểu, khám phá, nội dung kiến thức trong mỗi bài học. Giáo viên chỉ là người hỗ trợ thúc đẩy, định hướng giúp các em trong các hoạt động học tập đó. Như vậy vai trò của việc học theo nhóm là giải pháp tối ưu nhất.

Dạy học theo nhóm đây là mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng học dạy theo mô hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện linh động với đồ dùng dạy và học sẵn có để HS tham khảo; góc đồ dùng học tập, góc cộng đồng, góc trưng bày sản phẩm... Mô hình VNEN thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do HS tự quản và được tổ chức theo các hình thức, như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Học sinh tiếp thu nhanh được phát huy, học sinh tiếp thu chậm được các bạn của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Ở đây được coi là một phương pháp dạy học.

Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và phối hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm học sinh. Học sinh trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bầu không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. Học sinh có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa giáo viên và học sinh.

doc 16 trang Thu Nga 04/09/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng dạy học nhóm trong môn Tiếng Việt Lớp 2 theo mô hình VNEN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng dạy học nhóm trong môn Tiếng Việt Lớp 2 theo mô hình VNEN

Báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm Kĩ năng dạy học nhóm trong môn Tiếng Việt Lớp 2 theo mô hình VNEN
ọc lại...
	+ Ý kiến của các bạn về ...
	+ Theo tôi thì ...
	+ Tôi muốn hỏi các bạn.....
	Và giúp nhóm trưởng nắm rõ nhiệm vụ, công việc của mình khi hoạt động nhóm. Đặc biệt phải biết bao quát, nhắc nhở các thành viên nên tích cực tham gia các hoạt động thực hành. Để các bạn luôn phát huy tính độc lập, tự giác làm việc trong nhóm.
Ví dụ : Khi dạy Tập đọc, hoạt động đọc trong nhóm rất quan trọng.
- Nhóm trưởng có nhiệm vụ tổ chức các thành viên đọc nối tiếp đoạn, đọc phân vai, đọc diễn cảm....
- Đầu năm học, nhóm trưởng yêu cầu thành viên đọc tốt nhất, đọc trước nhóm để các thành viên khác quan sát. Sau khi nghe bạn đọc, thì phải đưa ra ý kiến nhận xét: tốc độ đọc, biết ngắt nghỉ đúng chưa? giọng đọc thế nào ? ....Cần học những gì ở bạn. Sau đó, những học sinh khác đọc. Trong quá trình đọc trong nhóm, học sinh phải đưa ra được các ưu, nhược điểm của bạn cùng nhau học tập và rút kinh nghiệm. Khi đã làm quen với việc đọc trong nhóm, dần dần nhóm trưởng lấy tinh thần xung phong để các bạn tự tin, tự khẳng định mình ở mức độ cao hơn.
- Đồng thời giáo viên phải quan sát, giúp đỡ điều chỉnh tốc độ đọc của mỗi học sinh trong nhóm và sau đó tổ chức các cuộc thi đọc và có sự khích lệ động viên kịp thời với học sinh.
 Ví dụ
 * Bài 15B: Anh em yêu thương nhau là hạnh phúc.
	HĐ1 trong Hoạt động thực hành:
	- Nhóm trưởng nêu mục tiêu. Tìm nhanh từ không thuộc nhóm trong mỗi dãy từ sau.
	- Yêu cầu các thành viên đọc nội dung của hoạt động
	- Yêu cầu các nhóm trao đổi thực hiện nội dung của hoạt động, các thành viên mạnh dạn, tự tin trình bày ý kiến và có sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm hoặc cô giáo kịp thời giúp đỡ
	+ Từ chỉ tính nết tốt: Chỉ ra được từ xanh biếc
	+ Từ chỉ màu sắc: Cao vút
	+ Từ chỉ hình dáng: Chuyên cần
	+ Từ chỉ mùi hương: Chót vót
	Sau hoạt động từng thành viên trong nhóm phải hiểu được các nhóm từ chỉ tính nết, màu sắc, hình dáng, mùi hương. Sau đó các em có thể bổ sung thêm các từ mà mình biết trong thực tế vào từng nhóm, để mở rộng thêm vốn từ ngữ của từng học sinh.
	Nhiều khi có những hoạt động không cần thực hiện theo nhóm lớn, mà chỉ cần hoạt động theo nhóm nhỏ, hoạt động theo cặp, có thể nhiều em còn nhút nhát, chưa tập trung dễ rơi vào tình trạng thụ động, máy móc hoặc hoạt động hỏi đáp mang tính hình thức. Nên giáo viên bước đầu cần làm mẫu và sắp xếp các cặp học sinh hơp lí sao cho các nhóm luôn có em mạnh dạn tự tin, chủ động.
Ví dụ
Trong Bài 9A: Hoạt động nhóm cặp.
Hoạt động 5: Đóng vai nói lời cảm ơn, xin lỗi.
	HS 1: Nêu Tình huống: Khi bạn giúp em gấp được một chiếc thuyền giấy rất đẹp bạn nói.
	HS 2: Mình cảm ơn bạn/...
	HS2 : Khi mượn truyện của bạn và trả không đúng hạn, bạn nói.
	HS 1: Mình xin lỗi bạn/...
	Trong hoạt động này khi học sinh hoạt động theo cặp thì mỗi học sinh cần biết cách xưng hô sao cho phù hợp với các tình huống. Với bạn bè thì bạn/mình..., với người lớn thì con/cháu...
	- Thái độ vui vẻ, lễ phép với người lớn.
	- Học sinh mạnh dạn, tự tin.
	Giáo viên cần chú ý, khai thác, phát hiện, phát triển vốn Tiếng Việt của các em, phát huy kinh nghiệm bản ngữ, tạo cơ hội để học sinh tập được lời nói tự nhiên trong mỗi tình huống, giúp cho việc học trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả.
	Cuối cùng giáo viên cho học sinh đóng vai thực hiện cuộc trao đổi theo cặp rồi trình bày trong nhóm lớn hay trước lớp, tránh sự nhàm chán một chiều, thay đổi hợp lí các hình thức cặp làm mẫu.
	Trong quá trình học sinh thực hiện nhóm, giáo viên khuyến khích, sửa chữa giúp học sinh nói rõ ràng thành câu và bước đầu nói đúng ngữ điệu các loại câu cơ bản, khi các em nói giáo viên quan sát lắng nghe, nhận xét cách nói tư thế, tác phong và sửa lỗi phát âm, lỗi dùng từ, đặt câu... cho các em.
Ví dụ
Trong bài 3C : Hoạt động thực hành 5
Hướng dẫn học theo nhóm như sau:
- Nhóm trưởng nêu yêu cầu của hoạt động: Lập danh sách từ 3 đến 5 bạn trong nhóm học tập của mình theo bảng chữ cái.
 - Giáo viên chuẩn bị Phiếu học tập kẻ sằn mẫu cần điền.
- Thư kí : Ghi họ tên tất cả các thành viên từ 3 đến 5 bạn trong nhóm mình vào một tờ giấy nháp.
- Nhóm trưởng: yêu cầu các thành viên đưa ra ý kiến của mình để hoàn thành yêu cầu của hoạt động.
- Từng thành viên chủ động hợp tác làm việc và phải đưa ra ý kiến của riêng mình.
- Thống nhất để chọn kết quả đúng.
- Giáo viên: Cần quan sát hỗ trợ các nhóm chưa hoàn thành được yêu cầu của hoạt động.
- Đánh giá kết hoạt động bằng cách: Các nhóm báo cáo kết quả, tự nhận xét và đánh giá chéo giữa các nhóm.
Trong hoạt động này đòi hỏi sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm tích cực và nghiêm túc mới đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu đề trong thời gian hợp lý.
 Ví dụ: 
Chia nhóm để học sinh kể về một con vật hay một loài cây mà em thích sau đó viết thành đoạn văn kể phù hợp đối tượng quan sát. Đôi khi, tùy mức độ khó dễ của nội dung bài học, chia nhóm theo trình độ để HS nào cũng có thể góp phần giải quyết nhiệm vụ học tập chung của nhóm.
Mặt khác, cần phải chọn lọc những nội dung có “tính vấn đề” hoặc tương đối khó, cần có sự hợp tác của một nhóm học sinh, bởi vì nếu làm việc độc lập, học sinh không đủ khả năng giải quyết. Cũng cần lưu ý đến “độ khó” của vấn đề, nên chọn vấn đề vừa sức học sinh và giáo viên phải theo sát để hướng dẫn, gợi ý cho các em. Nếu chọn vấn đề quá đơn giản sẽ không thực hiện được mục tiêu của phương pháp dạy học theo nhóm lại làm cho việc tổ chức hoạt động nhóm trở nên hình thức. 
3.3 Khả năng áp dụng giải pháp.
a) Thuận lợi – khó khăn. 
* Thuận lợi :
 - Đa số học sinh được trang bị đầy đủ tài liệu hướng dẫn học và đồ dùng học tập.
 - Học sinh trong lớp và trường thích học mô hình này.
 - Bản thân giáo viên thích nghiên cứu sâu và dạy học theo nhóm học sinh có hiệu quả. 
 Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1 tức là SGK, SGV và VBT cùng trong một quyển, điều đó rất tiện cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy và học.
 - Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động học của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy truyền thống  sang phương pháp học tích cực của học sinh.
 * Khó khăn: 
Một lớp học đông với thời gian giảng dạy từ 35 đến 40 phút học một tiết là một trở ngại rất lớn cho dạy học nhóm thành công. Nếu như giáo viên không kiểm soát cẩn thận tương tác giữa học sinh trong nhóm, thì một vài học sinh có thể lãng phí thời gian vào việc thảo luận những vấn đề không có liên quan hoặc có thể xảy ra trường học là một học sinh phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong nhóm không tham gia thảo luận mà lại quan tâm đến vấn đề kháctrong nhóm và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch, ganh đua quá mức. Thường khó để đánh giá từng học sinh một cách công bằng và một vài em có thể cảm thấy không thoải mái với việc đánh giá dựa trên sự nỗ lực của nhóm và sự bình xét của các bạn.
b) Thành công - Hạn chế.
* Thành công: 
Dạy học theo nhóm đã được giáo viên sử dụng khá phổ biến và thường xuyên: Từ khi có chủ trương đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường sự tham gia của học sinh, phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực của các em thì dạy học theo nhóm đã được coi là phương pháp dạy học hữu hiệu và bước đầu đã làm thay đổi bộ mặt phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông giáo viên đã nhận thức được những ích lợi của dạy học nhóm. Tác dụng của dạy học theo nhóm trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, tăng cường sự tham gia của học sinh như: mọi học sinh đều được trình bày ý kiến, học sinh tự tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học tập hơn.v.v... và phát triển những kĩ năng cần thiết cho học sinh như biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của bạn, biết trình bày ý kiến của mình cho các bạn nghe và hiểu, biết thống nhất ý kiến,v.v... 
Đối với giáo viên dạy học nhóm giúp giáo viên không phải nói nhiều trên lớp, nhưng cần chuẩn bị bài kỹ lưỡng hơn; hiểu khả năng của học sinh hơn.v.v.... giáo viên đã có kiến thức và một số kỹ năng để tiến hành dạy học theo nhóm: Qua dự giờ của một số giáo viên đều cho thấy về cơ bản giáo viên biết sử dụng phương pháp dạy học nhóm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu và nội dung bài học. giáo viên bước đầu đã biết lựa chọn hình thức và cơ cấu nhóm tương đối phù hợp, đã nêu được các bước dạy học theo nhóm. Khâu chuẩn bị của giáo viên cho hộc sinh trong nhóm làm việc theo 10 bước học tập cũng rất tốt. 
 Học sinh bước đầu đã có những kĩ năng làm việc theo nhóm: Các em đã biết nhanh chóng gia nhập vào nhóm, bầu nhóm trưởng, thư kí; bước đầu biết bày tỏ quan điểm, ý kiến và trình bày mạch lạc kết quả làm việc chung của cả nhóm. 
 Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, vẫn còn những tồn tại nhất định, cụ thể là: Gia đình các em đa số làm nông, kinh tế một số gia đình khó khăn nên chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, phải lo cuộc sống mưu sinh còn phó mặc công việc học tập của con em mình cho nhà trường. 
 Khi tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ, giáo viên chủ yếu hướng HS nhằm vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà nhóm học sinh cùng nhau thực hiện chứ chưa chú trọng giáo dục cho giáo viên những kĩ năng xã hội quan trọng mà làm việc nhóm có ưu thế.
 Sau khi các nhóm thảo luận giáo viên ít quan tâm chốt lại những kiến thức, kết luận chung làm cho học sinh không biết ý kiến nào là phù hợp. Dạy học nhóm chưa được sử dụng đồng đều ở tất cả các môn học. Còn đơn điệu trong việc sử dụng các hình thức tiến hành và nhiệm vụ giao cho nhóm. Nhiệm vụ giao cho nhóm còn đơn giản, ít phương án trả lời, không cần huy động nhiều kinh nghiệm của từng cá nhân và thiếu định hướng để học sinh buộc phải phân chia công việc hay phải trưng cầu ý kiến riêng của từng người trong nhóm.
Như vậy trong Chương trình Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2 theo mô hình VNEN hình thức hoạt động nghe nói theo nhóm rất phổ biến ở tất cả các bài học. Rất nhiều nội dung hình thức đòi hỏi học sinh phải hợp tác, huy động trí tuệ để giải quyết các yêu cầu của bài tập tạo ra sản phẩm đa dạng phong phú.
	- Giáo viên luôn tôn trọng tiến độ học tập của các nhóm.
	- Không nhất thiết lúc nào nhóm trưởng cũng điều hành cần luôn phiên vai trò của nhóm trưởng.
	- Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, quan sát các em làm, nói đủ nghe, nói với nhóm chứ không nói với cả lớp.
* Khi làm việc nhóm, các em đã mạnh dạn tự tin trình bày ý kiến của mình và có sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Đối với những em còn chưa hiểu, chưa biết cách làm sẽ được cô giáo và các bạn kịp thời giúp đỡ. Qua đó tôi thấy sự tiến bộ rõ rệt trong học tập và rèn luyện năng lực phẩm chất của học sinh.
c. Những điều giáo viên cần biết và rèn luyện
 Để phù hợp với chương trình sách giáo khoa và thực tiễn giáo dục hiện nay, theo tôi cần tìm và lựa chọn ra cách dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao nhất mang lại kết quả tốt nhất cho học sinh. Nhận thấy tầm quan trọng của việc dạy học nhóm theo mô hình trường học mới VNEN, tôi cho rằng: Để thực hiện tốt phương pháp dạy học nhóm, giáo viên cần phải có nhiều kĩ năng sau:
- Kĩ năng chia nhóm.
- Kĩ năng giao nhiệm vụ.
- Kĩ năng tổ chức cho học sinh làm việc trong nhóm.
- Kĩ năng quan sát.
- Kĩ năng tổ chức cho học sinh trình bày kết quả học tập.
- Kĩ năng đánh giá kết quả học tập.
- Kĩ năng phản hồi.
 Trong thời gian làm việc, giáo viên cần phải đến và đi xung quanh các nhóm quan sát các hoạt động của nhóm, nếu có vấn đề gì thì kịp thời định hướng Giáo viên nên thực hiện với một số nhóm học sinh cự thể: đặt câu hỏi gợi mở, trợ giúp các nhóm, khen ngợi, động viên học sinh nói về kết quả làm việc. Khi các nhóm hoạt động sôi nổi, các thành viên nhiệt tình, hào hứng thi đua thì giáo viên mới yên tâm. Một khi thấy các nhóm trầm lắng hay nhốn nháo.... thì giáo viên cần nghĩ ngay tới lí do nư phiếu học tập chưa phù hợp với trình độ hay chưa thực hiện đúng vai trò, học sinh chưa cần phát lệnh cứu trợ....thì ngay lúc đó giáo viên phải kịp thời có mặt, giải quyết vấn đề mà nhóm hoặc cá nhân trong nhóm gặp phải.
- Học nhóm theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kĩ năng: KN giao tiếp, KN hợp tác, KN tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. 
- Tạo điều kiện đẩy mạnh đổi mới PPDH và các hình thức dạy học trên cơ sở tổ chức các hoạt động phát huy tính tích cực, chủ động, khả năng tự học của học sinh. Tăng khả năng thực hành, vận dụng, tích hợp được hoạt động phát triển ngôn ngữ của học sinh thông qua các hoạt động học tập.
- Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của cộng đồng thông qua hoạt động ứng dụng của mỗi bài, rèn cho các em kĩ năng giải quyết các vấn đề, các khó khăn của nhóm và chính bản thân các em trong mỗi tiết học.
- Để có được kĩ năng tổ chức hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và rèn luyện.
- Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy học. 
- Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm trong quá trình dạy học.
- Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức nhóm.
- Rèn luyện cách chia nhóm thông qua các tiết học một cách thường xuyên.
- Chuẩn bị tốt cho mình bộ đồ dùng phục vụ cho việc học nhóm của học sinh. 
- Hoạt động nhóm có thể áp dụng được cho tất cả các tiết học ở tất cả các khối lớp ở cấp Tiểu học, đặc biệt là mô hình trường học mới VNEN. 
Sau một năm thực hiện, kinh nghiệm chưa có nhiều nhưng tôi cũng hài lòng về kết quả mình đạt được đó là: Trong mỗi tiết học, học sinh cảm thấy thoải mái, chơi mà học, học mà chơi, không tạo áp lực học tâp, giáo viên cảm thấy vui vẻ nhẹ nhàng sau mỗi giờ lên lớp. Đặc biệt, học sinh khá tự tin, mạnh dạn bày tỏ quan điểm, vốn hiểu biết của mình trước tập thể. Học sinh đạt được mục tiêu của chương trình lớp 2 đề ra.
3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến làn đầu 
TT
Họ và tên
Năm sinh
Nơi công tác
Chức vụ
Trình độ 
C Môn
Nội dung công việc hỗ trợ
1
Phùng Thị Dung
1965
TH Vân Trường
KT
CĐSP
Thực nghiệm 
và khảo sát
2
Phạm Thị Dung
1967
TH Vân Trường
GV
CĐSP
Thực nghiệm 
và khảo sát
3
Phạm Thị Hiền
1975
TH Vân Trường
GV
CĐSP
Thực nghiệm 
và khảo sát
3.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
 - Sách hướng dẫn học Tiếng Việt 2 Tập 1A, 1B, 2A, 2B
 - Phòng học, bàn ghế phù hợp để có thể sắp xếp chổ ngồi theo nhóm.
 - Trang thiết bị dạy học đồng bộ.
 - Tài liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên .....
3.8. Tài liệu kèm: 
4. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
 Tôi xin cam đoan báo cáo sáng kiến của tôi là do bản thân tự làm, không sao chép của ai. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng thi đua cấp trên.
 Do hạn chế của bản thân nên những phần được trình bày ở trên chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, tôi rất mong Hội đồng xét duyệt thi đua PGD - ĐT quan tâm góp ý để nhày càng hoàn thiện hơn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
	Vân Trường, ngày 19 tháng 5 năm 2017
CƠ QUAN ĐƠN VỊ 
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
 Phạm Thị Hiền

File đính kèm:

  • docbao_cao_sang_kien_kinh_nghiem_ki_nang_day_hoc_nhom_trong_mon.doc